Gốc > Mục:Đất nước mến thương > Mục:Du lịch - Lễ hội >
title:ĐỀN NGUYÊN PHI Ỷ LAN - CHÙA DÂU - CHÙA BÚT THÁP - LÀNG TRANH ĐÔNG HỒ - KINHDƯƠNG VƯƠNG - CHÙA PHẬTTÍCH - ĐỀN BÀ CHÚA KHO
date:01-02-2012
sender:Vũ Mai Phương

1. ĐỀN NGUYÊN PHI á»¶ LAN 

 Tìm hiểu má»™t chút qua những giai thọai lịch sá»­ về Nguyên Phi á»¶ Lan để biết tại sao bà nổi tiếng là tài năng và đức độ như vậy:

Năm Quý Mão 1063, Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai. Vua và hoàng hậu đi cầu tự nhiều nơi nhưng không thành. Một sáng mùa xuân, vua về viếng thăm chùa Dâu[2] (tổng Dương Quang, phủ Thuận Thành) dân làng mở hội nghênh giá.

Vua ngự giá đến trang Thổ Lỗi, thấy một cô thôn nữ xinh đẹp vẫn điềm nhiên hái dâu bên cạnh gốc lan. Lý Thánh Tông lấy làm lạ, cho người gạn hỏi. Người con gái đối đáp thông minh, cử chỉ đoan trang dịu dàng. Đó chính là Yến Loan. Vua truyền lệnh tuyển cô gái ấy vào cung, rước về Lan Cung thuộc đất làng Kim Cổ, huyện Thọ Xương của kinh thành Thăng Long. Lý Thánh Tông phong Yến Loan là Ỷ Lan phu nhân, cũng có ý kỷ niệm hình ảnh cô gái đứng tựa bên gốc lan.

Trong cung Ỷ Lan được học hành. Khác với các cung phi khác, Ỷ Lan không lấy việc trau chuốt nhan sắc, mong chiếm được tình yêu của vua mà quan tâm đến hết thảy mọi công việc trong triều đình. Bà khổ công học hỏi, miệt mài đọc sách. Chỉ trong một thời gian ngắn, mọi người đều kinh ngạc trước sự hiểu biết uyên thâm về nhiều mặt của Ỷ Lan, triều thần khâm phục Ỷ Lan là người có tài.

Khi sinh người con trai thứ nhất là Càn Đức[3] (Bính Ngọ 1066), bà được phong là Thần phi, sinh người con trai thứ hai là Minh Nhân Vương, bà được phong là Nguyên phi. Càn Đức được lập làm thái tử. Khi vua Lý Thánh Tông mất (1072), Càn Đức lên nối ngôi, tức là vua Nhân Tông, bà được phong là Linh Nhân Hoàng Thái hậu.

Ỷ Lan đã hai lần làm nhiếp chính (thay vua lo việc triều chính).

Lần thứ nhất

Năm Kỷ Dậu 1069, Lý Thánh Tông thân chinh cùng Lý Thường Kiệt mang quân đi đánh Chiêm Thành, trao quyền nhiếp chính cho Ỷ Lan. Cũng năm ấy, nước Đại Việt không may bị lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi sinh loạn. Nhưng nhờ có kế sách trị nước đúng đắn, quyết đoán táo bạo, loạn lạc đã được dẹp yên, dân đói đã được cứu sống. Cảm cái ơn ấy, cũng là cách suy tôn một tài năng, nhân dân đã tôn thờ Ỷ Lan là Quan Âm Nữ, lập bàn thờ Ỷ Lan.

Lý Thánh Tông đánh giặc lâu ngày không thắng, bèn trao quyền binh cho Lý Thường Kiệt, đem một cánh quân nhỏ quay về. Đến Mạt Liên[5] (Tiên Lữ, Hưng Yên ngày nay), Lý Thánh Tông hay tin Ỷ Lan đã vững vàng đưa đất nước vượt qua khó khăn, giữ cảnh thái bình, thịnh trị, vua hổ thẹn quay ra trận quyết đánh cho kỳ thắng mới về. Trong sự nghiệp chấn hưng đất nước của Lý Thánh Tông, có vai trò không nhỏ của Nguyên phi Ỷ Lan.

Lần thứ hai

Năm Nhâm Tý 1072, Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, hoàng thái tử Lý Càn Đức mới 7 tuổi lên nối ngôi (tức hoàng đế Lý Nhân Tông), bà được tôn làm Hoàng thái phi, rồi Hoàng thái hậu. Triều đình rối ren, Ỷ Lan đã coi triều chính, điều khiển cả quốc gia, cùng tể tướng Lý Thường Kiệt chủ trương đánh quân Tống xâm lược. Hai lần quân Tống sang xâm lược (1075 và 1077), vua Lý Nhân Tông chưa quá 10 tuổi, Ỷ Lan đã bỏ qua hiềm khích cũ, điều Lý Đạo Thành từ Nghệ An về, trao lại chức Thái sư, cùng Lý Đạo Thành lo việc binh lương chuyển ra tiền tuyến.

Là một phụ nữ tài trí, đức độ, lại được Lý Thường Kiệt ủng hộ nên Hoàng Thái hậu đã có những đóng góp tích cực vào cơ nghiệp nhà Lý.

Hoàng Thái hậu Ỷ Lan còn chăm lo đến việc mở mang dân trí, thi cử học hành. Bà ban hành nhiều chính sách tiến bộ như chuộc nô tỳ, tha cung nữ, giảm tô thuế, cấm giết trâu bò. Ngô Sĩ Liên có lời bàn: "Con gái nghèo đến nỗi phải đợ mình làm mướn, con trai nghèo đến nỗi không vợ đó là cùng dân của thiên hạ. Thái hậu (tức Ỷ Lan) đổi mệnh cho họ cũng là việc nhân chính vậy".

Là người rất am hiểu và hâm mộ đạo Phật, Hoàng Thái hậu Ỷ Lan có công xây dựng hàng trăm ngôi chùa. Chính nhờ câu chuyện giữa bà và các vị sư thời Lý [6], mà đến nay mới biết được gốc tích sự truyền bá đạo Phật vào Việt Nam.

Ỷ Lan còn được các nhà nghiên cứu văn học xếp vào hàng tác gia văn học thời Lý - Trần. Bà có làm những bài kinh, có câu kệ còn truyền lại đến ngày nay:

Sắc thị không, không tức sắc
Không thị sắc, sắc tức không
Sắc không quân bất quản
Phương đắc khế chân không.

Sắc là không, không tức sắc
Không là sắc, sắc tức không
Sắc không đều chẳng quản
Mới được hợp chân tông.

Đình Yên Thái - nơi thờ Nguyên phi Ỷ Lan

Nhưng trong đời Ỷ Lan không phải không có tì vết. Sau khi vua Lý Thánh Tông qua đời, hoàng hậu Thượng Dương dựa vào thế lực của Thái sư Lý Đạo Thành, đã gạt Ỷ Lan ra khỏi triều đình. Mãi 4 tháng sau, có Lý Thường Kiệt giúp sức, Ỷ Lan mới trở lại nắm quyền nhiếp chính. Bà đã xui vua bắt giam Hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ vào lãnh cung, bỏ đói cho đến chết. Về cuối đời Ỷ Lan đã hối hận về hành động của mình, bà cho lập nhiều chùa để tỏ lòng sám hối và độ siêu sinh cho hoàng hậu Thượng Dương và các cung nữ[cần dẫn nguồn].

Bà mất ngày 25 tháng 7 (âm lịch) năm 1117, năm Đinh Dậu, Hội Tường Đại Khánh năm thứ 8 đời Lý Nhân Tông, thọ 74 tuổi. Bà được hỏa táng, dâng thụy là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng thái hậu, mai táng ở Thọ Lăng, phủ Thiên Đức. Tại quê hương và nhiều nơi đã xây dựng chùa tháp, đền thờ bà. Cùng với những ngôi đền lớn thờ bà ở huyện Gia Lâm, Hà Nội, hiện ở Hưng Yên có hai ngôi: Đền Ghềnh, xã Như Quỳnh và chùa Hương Lãng, xã Minh Hải đều thuộc huyện Văn Lâm.

Theo Wikipedia

Cách Hà Nội 18km, nằm trên quốc lộ số 5, cũng trên đường đi Hải Phòng là đền thờ Nguyên Phi Ỷ Lan, đây cũng là ngôi đền trên quê hương của bà (có rất nhiều nơi thờ Nguyên Phi Ỷ Lan).
1.



2. Cổng vào đền


3.


Nằm ở phía tay trái, trước cửa đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan là đôi rồng chầu bằng đá phủ phục, với đường nét, chạm khắc hết sức tinh xảo.

4.


Đền thờ được xây dá»±ng từ cuối thế ká»· XI, là nÆ¡i phụng thờ bà ngay trên quê hương cá»§a mình. Đền có kiến trúc theo lối cung đình thời Lý, có 72 cá»­a, thuá»™c loại cổ nhất nước ta, cách không xa đền phía tay phải có chùa mang tên: “Linh Nhân tư Phúc Tự” do chính Linh Nhân Hoàng Thái Hậu á»¶ Lan xây dá»±ng cùng vá»›i hàng trăm ngôi chùa khác, được khánh thành tháng 03 năm Ất Mùi (1115). 

5.


6.


7.


8.


Một buổi lên đồng
9.



10.


Ngay cạnh đền là chùa Tư Phúc do nguyên phi Ỷ Lan cho xây dựng năm 1115. Đền và chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật quí như: Ba chân tảng đá chạm cánh sen, hai đầu sư tử đá, một thành bậc chim phượng đều ở thời Lý, bốn tấm bia đá thời hậu Lê, một khám thờ chạm rồng uốn khúc yên ngựa, chạm thủng hoa văn linh vật thời Mạc, năm hoành phi, hai câu đối ca ngợi công đức của thái hậu Ỷ Lan.

11.


12.


13. Giếng cổ


14. Hồ vả thủy đình


Hàng năm cứ vào dịp từ 19 đến 21 tháng 2 âm lịch, du khách thập phương lại hành hương về Dương Xá tham dự lễ hội truyền thống kỷ niệm ngày Nguyên phi Ỷ Lan đăng quang và ngày 24, 25 tháng 7 âm lịch, ngày mất của bà. Tất cả cùng về thắp hương tưởng niệm, nhớ về người phụ nữ có tài kinh bang tế thế, từng đã 2 lần nhiếp chính trông coi việc nước mà người phụ nữ đã nổi danh trong lịch sử nước nhà.

2. Chùa Dâu- ngôi chùa Phật giáo cổ nhất Việt Nam

(VOV) - Chùa Dâu tọa lạc ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30km. Chùa có nhiều tên gọi: Diên Ứng tự, Pháp Vân tự, Thiền Đình tự, Cổ Châu tự. Nơi đây là trung tâm thành cổ Luy Lâu từ thế kỷ thứ II sau Công nguyên.

Có câu thơ lưu truyền dân gian:
Dù ai đi đâu về đâu
Há»… trông thấy tháp chùa Dâu
 thì về,
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu

Theo ghi chép trong sách sá»­ và bia đá, đây là ngôi chùa Phật giáo cổ nhất Việt Nam, là nÆ¡i giao lưu cá»§a hai luồng văn hóa Phật giáo, má»™t từ Ấn Độ sang, má»™t từ phương Bắc xuống. Chùa được xây dá»±ng từ thế kỉ thứ 2 (khởi công xây dá»±ng năm 187 và hoàn thành năm 226) dưới thời SÄ© Nhiếp làm thái thú. Chùa Dâu thờ nữ thần Pháp Vân nên gọi là chùa Pháp Vân và nằm trong vùng đất Cổ Châu nên cÅ©ng gọi là chùa Cổ Châu. Chùa gắn liền vá»›i truyện cổ tích Tứ pháp cá»§a người Việt xưa.

Vào đầu công nguyên, các tăng sĩ Ấn Độ, tiêu biểu là Khâu Đà La, đã tới Dâu – tức Luy Lâu tiến hành truyền bá đạo Phật, lập nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu – trung tâm Phật giáo lớn nhất và cổ xưa nhất của Việt Nam. Chùa tháp được xây cất nguy nga bên cạnh thành quách, đền đài, cung điện, lầu gác, phố chợ sầm uất của đô thị Luy Lâu, trong đó chùa Dâu là trung tâm trong hệ thống các chùa thờ Phật và thờ tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện), một nét độc đáo trong sự kết hợp giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng dân gian của người Việt. Chùa Dâu trở thành trung tâm của Thiền phái Tì ni đa lưu chi – Thiền phái đầu tiên của Phật giáo Việt Nam.

 

Tiền đường Chùa Dâu


Kiến trúc chùa Dâu còn đến ngày nay được dựng dưới thời Trần năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp. Bao quanh tòa điện chính hình chữ công là những dãy nhà ngang, nhà dọc vây kín theo kiểu nội công ngoại quốc.

 

 

Tháp Hòa Phong

 

Chính giữa sân chùa trước bái đường, Mạc Đĩnh Chi đã cho dựng ngôi tháp Hòa Phong cao chín tầng, nay chỉ còn ba. Ngôi tháp vuông xây bằng gạch trần, dáng chắc khỏe nổi bật giữa khung cảnh xung quanh. Tháp tượng trưng cho ngọn núi vũ trụ, bốn góc tháp có bốn tượng Thiên vương trấn giữ, trên tháp treo một khánh đồng cổ.

 

Ban thờ Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi
Thượng điện nhìn từ bên ngoài

Tháp Hòa Phong Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ "Hòa Phong tháp". Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có 4 cửa vòm. Từ "Hoà Phong" có nghĩa là ngọn gió mát mẻ, tốt lành.

 

 

 
 
 
 

 

Trong tháp có treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương - 4 vị thần trong truyền thuyết cai quản 4 phương trời- cao 1,6 m ở bốn góc

 

Con cừu đá


Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dá»±ng năm 1738, bên trái có tượng má»™t con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Điều này làm ngạc nhiên nhiều du khách, bởi xưa kia nước Việt không có con cừu. Truyền sá»­ kể rằng: vào thời Luy Lâu còn là trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế cá»§a cả nước ta, có vị sư người Tây Thiên sang nước ta tu hành truyền bá đạo Phật. Ông dắt theo 2 con cừu. Má»™t hôm sÆ¡ ý để 2 con Ä‘i lạc, 1 con lạc đến chùa Dâu, 1 con lạc đến lăng SÄ© Nhiếp (thái thú Giao Chỉ thời đó), dân ở 2 vùng này đã tạc tượng 2 con cừu bằng đá ở nÆ¡i chúng đến để thờ. Do vậy hiện nay chùa Dâu có 1 con,  lăng SÄ© Nhiếp (cách đó 3 km) có 1 con.

 

Trải qua bao biến động lịch sá»­, thành lÅ©y, đền dài, dinh thá»± cá»§a trung tâm Luy Lâu bị hoang phế. Nhưng chùa Dâu vá»›i tháp Hòa Phong vươn cao và hàng trăm gian chùa cổ kính vẫn tồn tại vá»›i thời gian. Lịch sá»­ đã từng khẳng định vị trí cá»§a chùa Dâu trong đời sống văn hóa, tâm linh dân tá»™c. Chùa là một danh lam bậc nhất cá»§a xứ kinh Bắc xưa nay. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sá»­-văn hóa quốc gia. 

Chỉ dẫn đường đi: Cùa Dâu nằm trên địa phận xã Thanh Khương - Thuận Thành - Bắc Ninh. Có thể tới chùa bằng nhiều đường, tuy nhiên đường ngắn nhất tính từ trung tâm TP Hà Nội là: Cầu Chương Dương- Đường Nguyễn Văn Cừ - Cầu Chui - đường QL 5 - tỉnh lộ 181 - Dương Xá ( Gia Lâm ) - Phú Thị ( Gia Lâm ) - Thuận Thành - Phố Dâu - Chùa Dâu.

 

Tiền đường của chùa Dâu

 

 

 

18 vị La Hán trong chùa

 

 

 

Hậu điện phía sau chùa chính

 

 

 

   

 

 

 

Các pho tượng Bồ Tát, Tam Thế, Đức Ông, Thánh Tăng được đặt ở phần hậu điện sau chùa chính

 

 

 

   

Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam Châu Thái tử

 

 

 

 

 

 

 

   

Thăm Chùa Dâu

 

Tư liệu tổng hợp. Ảnh Lê Bích

 

3. CHÙA BÚT THÁP

 

Năm 1876, vua Tự Đức khi đi qua đây thấy một ngọn tháp hình cây bút khổng lồ vươn lên trời xanh liền đặt tên là Bút Tháp…

Khi nói về các danh thắng cá»§a đất Kinh Bắc, không thể không nhắc tá»›i chùa Bút Tháp. Ngôi chùa nổi tiếng này còn được gọi là Ninh Phúc tá»±, nằm ở bên đê hữu ngạn sông Đuống, ngày nay thuá»™c thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. 

Theo các tư liệu lịch sá»­, chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278). Đến thế ká»· 17, chùa trở nên nổi tiếng vá»›i sư trụ trì là Hòa thượng Chuyết Chuyết (1590-1644), người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, người sang Việt Nam hoằng bá Phật pháp từ năm 1633. Năm 1644, Hòa thượng viên tịch và được vua Lê phong là "Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư". 

Sau khi Hòa thượng Chuyết Chuyết viên tịch, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc đã rời bỏ cung thất về chùa tu hành. Thấy chùa xuống cấp nhiều, bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên xin Chúa Trịnh Tráng bỏ tiền của ra công đức để trùng tu lại ngôi chùa. Đến năm 1647, việc trùng tu hoàn thành. Về cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp hiện nay chính là ngôi chùa được xây dựng trong thời kỳ đó.

Năm 1876, vua Tự Đức khi đi qua đây thấy một ngọn tháp hình cây bút khổng lồ vươn lên trời xanh liền đặt tên tháp là Bút Tháp, nhưng trên đỉnh vẫn ghi tên gốc của ngọn tháp là tháp Bảo Nghiêm. Từ đó ngôi chùa và thôn xóm quanh chùa mang tên là Bút Tháp. Ngoài ra, nhân dân trong vùng còn gọi là chùa Nhạn Tháp.

Trong lịch sử của mình, chùa được trùng tu vào các năm 1739, 1903, 1915, 1921 và gần đây vào năm 1992-1996. Đây là ngôi chùa được đánh giá là có kiến trúc quy mô hoàn chỉnh nhất còn lại ở Việt Nam. Chùa cũng là nơi lưu giữ tượng Bồ tát Quan Thế Âm thiên thủ thiên nhãn bằng gỗ lớn nhất, một tuyệt tác điêu khắc cổ đã được công nhận là bảo vật Việt Nam.

Một số hình ảnh Đất Việt ghi nhận về chùa Bút Tháp:



Bút tháp là một trong số ít những ngôi chùa cổ có kiến trúc theo kiểu "Nội Công Ngoại Quốc", được xây dựng trên quy mô lớn của Đồng bằng Bắc Bộ còn lại đến ngày nay..


Cụm kiến trúc trung tâm ở Chùa Bút Tháp bao gồm 8 đơn nguyên chạy song hành được bố trí đăng đối trên một đường "Thần Đạo" và được bao bọc bởi hai dãy hành lang chạy suốt dọc chùa ở hai bên.


Điểm nhấn kiến trúc của chùa là tháp Bảo Nghiêm, hay Bút Tháp, nơi thờ Hòa thượng Chuyết Chuyết. Tháp cao 13,05 m, gồm 5 tầng với một phần đỉnh xây bằng đá xanh. Ngoài tầng đáy rộng hơn, 4 tầng trên gần giống nhau, rộng 2m. 5 góc của 5 tầng có 5 quả chuông nhỏ. Lòng tháp có một khoang tròn đường kính 2,29 m.


Phần chân tháp được bao quanh bằng hai vòng tường cấu tạo bằng cột và lan can. Riêng ở tầng dưới cùng của toà tháp này có mười ba bức chạm đá với lấy đề tài chủ yếu là các con thú.


Ngọn tháp là minh chứng cho tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc tuyệt vời của người thợ Việt Nam xưa.


Một nét kiến trúc đặc sắc khác là chiếc cầu đá có ba nhịp uốn cong dẫn từ thượng điện đến ngôi tòa nhà Tích Thiện am, một công trình cấu tạo khung gỗ có 3 tầng mái.


Hai bên cầu là hai hồ nhỏ thông nhau, có trồng cây thủy sinh, tạo nên sự hài hòa giữa vẻ đẹp kiến trúc và thiên nhiên.


Cũng như tháp Bảo Nghiêm, cầu đá là nơi hội tụ của nhiều bức phù điêu và tượng đá giàu tính nghệ thuật.


Chùa Bút Tháp là nơi lưu giữ tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay nổi tiếng do nhà điêu khắc họ Trương tạc năm 1656, hiện được công nhận là bảo vật quốc gia. Đây được coi là một kiệt tác độc nhất vô nhị về tượng Phật và nghệ thuật tạc tượng - nghệ thuật làm nổi bật triết lý nhà Phật bằng ngôn ngữ tạo hình hàm súc.


Gác chuông chùa có 2 tầng, 8 mái.


Một góc sân chùa nhìn từ gác chuông.


Vườn tháp tổ, nơi lưu giữ di cốt của các thiền sư từng tu hành tại chùa.


Văn bia của chùa.


Nghê đá ngoài cổng Tam quan.

Hồng Quân - Báo Đất Việt

Threads most viewed same category:

 

4. LÀNG TRANH ĐÔNG HỒ

Cách Hà Nội gần 30km, nằm ấp mình bên bờ đê phía nam của dòng sông Đuống hiền hoà, nghiêng trôi một “dòng lấp lánh”, làng tranh Đông Hồ đã trải qua biết bao thăng trầm để cố giữ cho “hồn dân tộc” mãi được “sáng bừng trên giấy điệp”.
(GNO-Bắc Ninh):
 Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gá»— dân gian Đông Hồ, má»™t dòng tranh dân gian Việt Nam vá»›i xuất xứ từ làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).Đầu xuân về thăm làng tranh Đông Hồ

Một trong 2 phòng tranh còn lại ở làng tranh Đông Hồ

TDH (1).JPG

TDH (8).JPG

TDH (2).JPG

Những bức tranh vang bóng một thời

TDH (3).JPG

TDH (4).JPG

Trong những ngày đầu Xuân giá rét, ghé về làng nghề, chúng tôi không khởi Ä‘ượm buồn khi giờ đây tranh Đông Hồ không còn mang tính “thuần Việt” như thời xưa mà Ä‘ang dần bị thương mại hoá. Đến vá»›i chợ tranh Đông Hồ bây giờ, người ta không còn được thấy cảnh tấp nập bán mua, cÅ©ng không còn cảnh người người, nhà nhà ưa chuá»™ng tranh Đông Hồ như ngày xưa nữa.

TDH (5).JPG

Các bảng khắc in tranh

TDH (6).JPG

TDH (7).JPG

TDH (10).JPG

Các thế hệ sau cÅ©ng ít muốn học và theo nghề tranh truyền thống cá»§a cha ông vì quá vất vả mà lại ít lợi nhuận. Du khách đến làng tranh bây giờ vẫn thấy cảnh phÆ¡i giấy nhưng đó lại là giấy để làm hàng mã chứ không phải giấy dó in tranh...Điều đáng nói hÆ¡n, tuy còn gọi là làng tranh nhưng hiện nay chỉ còn lại 2 nghệ nhân vá»›i 2 phòng tranh chưa xứng tầm ngay giữa vùng quê rá»™ng rãi.

Bài, ảnh Hạnh Tâm

5. ĐỀN THỜ KINH DƯƠNG VƯƠNG

 

Ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành (Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) có khu đền thờ và lăng mộ một đế vương, thủy tổ của người Việt là Kinh Dương Vương.


Lăng mộ Kinh Dương Vương


Chùa thờ Phật trong khuôn viên đền Kinh Dương Vương


Đền Kinh Dương Vương

    Thời Lê Thánh Tông, sá»­ gia Ngô SÄ© Liên chép “Ká»· Hồng Bàng”: “Tổ tiên người Việt có vua đầu gọi là Kinh Dương Vương tinh thần Ä‘oan chính, có đức tính cá»§a thánh nhân. Vương lấy con gái thần Động Đình sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu CÆ¡ sinh ra má»™t bọc trứng nở ra thành 100 con. Lạc Long Quân mang 50 con Ä‘i khai phá miền biển, Âu CÆ¡ mang 50 con Ä‘i khai phá miền núi. Con trưởng nối ngôi là Hùng Vương, đặt quốc hiệu là Văn Lang, định đô ở Phong Châu, chia thành 15 bá»™. Hùng Vương trải 18 đời”. Ká»· Hồng Bàng kéo dài từ năm 2879 đến năm 258 trước công nguyên.

    Đền thờ Kinh Dương Vương nằm ở khu đất thoáng rá»™ng ở giữa thôn Á Lữ, rá»™ng đến 3.000m2, cảnh quan rất đẹp. Bên trong hậu cung đền có ba ngai thờ: Ngai Kinh Dương Vương đặt ở gian giữa, ngai Lạc Long Quân ở bên phải, ngai  Âu CÆ¡ đặt ở bên trái. Ngoài các đồ thờ cúng, đền có lưu giữ 15 đạo sắc phong thời Nguyá»…n, khẳng định đền thờ Kinh Dương Vương là lăng tẩm đế vương bằng chữ Hán, có má»™t sắc phong cá»§a vua Tá»± Đức năm thứ 33, tạm dịch là: Xã Á Lữ từ lâu phụng thờ đền Kinh Dương Vương, vị vua khai sáng văn minh, thánh cá»§a người Việt. Chuẩn cho tiếp tục thờ theo nghi lá»… quốc khánh.


Đền Kinh Dương Vương tại thôn Á Lữ


Tư bổ, bảo quản đền


Cổng làng Á Lữ

    Cách đền thờ độ 300m, ra ngoài đê là khu lăng má»™ Kinh Dương Vương nằm trên gò đất cao ráo ven sông Đuống, khu lăng rá»™ng 6000m2 , um tùm cây cổ thụ. Thời Minh Mạng, lăng được tu bổ lập bia (được tạm dịch): Lăng miếu ngày xưa còn dấu tích thiêng liêng tại đây. NÆ¡i thờ cúng này được cả nước sùng kính.

    Đền thờ và lăng má»™ Kinh Dương Vương trường tồn cùng vá»›i thời gian, luôn được nhân dân và Nhà nước bảo vệ, trùng tu tôn tạo, xây dá»±ng lại vá»›i đạo lý vấn tổ, tầm tông.

Hồng Bàng là tổ nước ta
Nước ta khi ấy tên là Văn Lang.

    Lá»… há»™i Kinh Dương Vương luôn được duy trì nhiều nghi lá»… và má»™t số hoạt động dân gian. Từ năm  2000, Nhà nước ta tổ chức quốc giá»— 10-3. Con cháu thập phương về dá»± há»™i Kinh Dương Vương diá»…n ra đồng thời vá»›i đền Hùng ở Phú Thọ. Vị thánh mở nước luôn được đời đời ngưỡng vọng.

    Ngày 20-2-2000, ông Nguyá»…n Khoa Điềm – Ủy viên Trung ương Đảng, Bá»™ trưởng Bá»™ Văn hóa – Thông tin về dâng hương đền và lăng Kinh Dương Vương, đã ghi: “Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân – Âu CÆ¡ là thá»§y tổ cá»§a đất nước, mở ra thời đại các vua Hùng làm rạng rỡ non sông đất Việt. Di sản và những nÆ¡i thờ cúng cá»§a các vị là tài sản quý báu thiêng liêng cá»§a dân tá»™c. Nhà nước ta nhất định sẽ có chính sách trùng tu, tôn tạo ngày càng tốt đẹp hÆ¡n.

    Mong muốn nhân dân Á Lữ chăm lo giữ gìn di tích thờ phụng Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân – Âu CÆ¡ để làm nÆ¡i giáo dục muôn đời”.

PHẠM HUY TƯỞNG

6. CHÙA PHẬT TÍCH

 

(ĐVO) Tọa lạc trên sườn phía Nam núi núi Lạn Kha (còn gọi là núi Phật Tích) ở xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, chùa Phật Tích nổi tiếng trong lịch sử với kiến trúc đẹp và cảnh sắc thanh tịnh.

Theo các sá»­ liệu, chùa Phật Tích được xây dá»±ng hoàn thiện vào năm 1057. Chùa giữ vai trò quan trọng trong lịch sá»­ Phật giáo Việt Nam vì là nÆ¡i đầu tiên Phật giáo Ấn Độ truyền vào nước ta. Đây cÅ©ng là nÆ¡i gắn vá»›i huyền tích “Từ Thức gặp tiên” và tích Phật A Di Đà xuất hiện. 

Năm 1066, vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072) cho xây dựng tòa bảo tháp kì vĩ, cao khoảng 40m bên sườn núi. Tương truyền, khi tòa tháp đổ, bên trong lộ ra một pho tượng Phật A di đà tạc bằng đá xanh nguyên khối. Trước sự kiện này, xóm Hỏa Kê cạnh chùa đã đổi tên thành thôn Phật Tích.

Chùa đã được trùng tu tôn tạo nhiều lần qua nhiều thời kỳ lịch sá»­. Năm 1947, chùa đã bị thá»±c dân Pháp thiêu rụi. Từ 1954 đến nay, chùa được khôi phục dần. 

Hiện tại, khu vá»±c núi Lạn Kha - chùa Phật Tích Ä‘ang hoàn tất quá trình tôn tạo theo má»™t quy hoạch tổng thể vá»›i qui mô lá»›n để trở thành má»™t đại danh lam cá»§a đất nước. Tâm Ä‘iểm cá»§a thắng tích này sẽ là má»™t Đại Phật tượng cao 27m , phục dá»±ng theo nguyên mẫu Bảo tượng A Di Đà cá»§a chùa. Toàn bá»™ vùng thắng tích sẽ được má»™t rừng thông tâm linh bao phủ… 

Dưới đây là một số hình ảnh Đất Việt ghi nhận:

Chùa Phật Tích nổi tiếng trong lịch sử với kiến trúc đẹp và cảnh sắc thanh tịnh.

Chùa đã bị phá hủy phần lớn vào năm 1947. Nhiều hạng mục công trình mới được khôi phục lại trong thời gian gần đây.

Tuy vậy, nhiều dấu tích của ngôi chùa cổ vẫn được lưu giữ, như những bức tường làm bằng đá xếp chồng lên nhau.

10 tượng thú bằng đá cao 1m vẫn được giữ gìn, gồm sư tử, voi, tê giác, trâu, ngựa, mỗi loại hai con, nằm trên bệ hoa sen tạc liền bằng những khối đá lớn. Chúng được tạo tác trong thế chầu phục để thể hiện sự cảm hóa của Phật pháp.

Tòa Tam bảo là nơi đặt tượng Phật A Di Đà bằng đá xanh làm từ thời Lý, được coi là báu vật quốc gia của Việt Nam.

Ngay dưới chân tượng là tầng hầm, nơi trưng bày nền móng đại bảo tháp nổi tiếng của thời Lý mới được khai quật. Dựa vào diện tích gần 100m2 của nền móng, các chuyên gia ước tính ngọn tháp cao khoảng 42m..

Sau tòa Tam bảo là vườn tháp với 32 ngôi bảo tháp là nơi cất giữ xá lị của các bậc chư Tổ, chư Tăng đã viên tịch tại chùa. Phần lớn các tòa tháp được dựng vào thế kỷ 17.

Vườn hoa mẫu đơn ở sân chùa, nơi xảy ra câu truyện Từ Thức gặp tiên đã được phỏng dựng. Theo câu chuyện này, Từ Thức đi xem hội hoa mẫu đơn, gặp Giáng Tiên bị bắt trói vì tội hái trộm hoa. Từ Thức bèn cởi áo xin tha cho tiên nữ. Sau Từ Thức từ quan đi du ngoạn các danh lam thắng cảnh, đến động núi ở cửa biển Thần Phù gặp lại Giáng Tiên...

Từ sân chùa, có một lối đi xuyên qua rừng thông để lên đỉnh núi.

Trên đỉnh núi đặt Đại Phật tượng A Di Đà, cao 27m, thực hiện theo nguyên mẫu bảo tượng A Di Đà trong chùa. Công trình được khánh thành vào dịp mừng Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội năm 2010 và là pho tượng Phật bằng đá lớn nhất Đông Nam Á tính đến thời điểm hiện tại.

Cách Đại Phật tượng không xa là tòa bảo tháp cao vút.

Phong cảnh vùng đất Kinh Bắc nhìn từ đỉnh núi Lạn Kha.

 

 

 

 

 

7. Äá»n Bà Chúa Kho

alt

Vùng quê Kinh Bắc cổ kính và văn hiến có không ít những đền thờ thần mẫu, trong đó đền thờ Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ ven chân núi Kho, nằm bên bờ sông Cầu (thuộc phường Vũ Ninh, TP Bắc Ninh) được coi là một ngôi đền thờ mẫu điển hình trong vùng. Hàng năm, cứ vào dịp đầu và cuối năm, hàng nghìn lượt khách thập phương trong cả nước lại về vãng cảnh, cầu may ở đền Bà Chúa Kho, các hoạt động tín ngưỡng và dịch vụ hành lễ cũng theo đó được mùa làm ăn sôi động.

Hình ảnh Bà Chúa Kho được truyền tụng trong dân gian vá»›i sá»± ngưỡng má»™ tôn thờ cá»§a dân vùng Kinh Bắc và khách thập phương cả nước. Tương truyền, bà Chúa Kho là người phụ nữ nhan sắc tuyệt trần, lại khéo tổ chức sản xuất, tích trữ lương thá»±c, trông nom kho tàng quốc gia trong và sau chiến thắng Như Nguyệt (1076), có công chiêu dân dá»±ng lập làng xóm vùng Quả Cảm, Cổ Má»…, Thượng Đồng. Giúp mọi người khai khẩn đất Ä‘ai nông nghiệp... Sau này bà trở thành má»™t vị hoàng hậu (tương truyền vào thời Lý), giúp nhà vua trong việc kinh bang đất nước, giữ gìn kho lương, bà đã bị giặc giết trong lúc phát lương cứu đỡ dân làng vào ngày 12 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1077). Cảm kích đối vá»›i tấm lòng bao dung cá»§a bà, nhà vua đã có chiếu phong cho bà là Phúc Thần, nhân dân Cổ Má»… nhá»› Æ¡n và lập đền thờ ở vị trí kho lương trước kia. Không ai biết tên thật cá»§a Bà là gì, chỉ gọi má»™t cách tôn kính là Bà Chúa Kho. Hàng năm nhân dân Ä‘ịa phương tổ chức ngày  tưởng nhá»› Ä‘ến bà rất trang nghiêm trọng thể.

Ngôi đền nhìn về hướng Nam, phía trước là dải đồng trũng, uốn khúc theo triền núi bên dòng sông Cầu, quanh năm nước đầy tạo thành hồ lớn - gọi là hồ Đồng Trầm (hiện đã được quy hoạch xây dựng Khu Du lịch). Đền có kiến trúc của thời Lê, được bố trí theo chiều dọc, chạy từ chân lên sườn núi Kho. Cổng tam quan là công trình mở đầu cho cụm kiến trúc này, các công trình chính của đền bao gồm sân đền, hai dải vũ, toà tiền tế, công đệ nhị và hậu cung, tất cả tạo thành một thể thống nhất, uy nghi. Chị Hồng, quê ở TP Nam Định, người có 7 năm liền đến lễ ở đền Bà Chúa Kho kể: “Mình đi nhiều nơi song thích nhất kiểu kiến trúc ở đây. Mấy năm trước đến đây mình thường bị những người bán lễ, sớ, khấn thuê bám theo, chèo kéo, ép giá nhưng giờ hiện tượng này gần như không còn. Các khu vực bán hàng, dịch vụ hành lễ được quy hoạch rõ ràng, mỗi cửa hàng đều treo bảng giá chi tiết dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của các cụ trong Ban Quản lý di tích, an ninh trật tự cũng được bảo đảm nên mình thấy rất yên tâm và thoải mái”.

Đi lá»… Bà Chúa Kho đã trở thành thói quen đối vá»›i nhiều người, đặc biệt là giá»›i kinh doanh. Cứ vào dịp đầu xuân năm má»›i hàng ngàn khách thập phương trong cả nước lại đến chiêm bái, thắp hương và dâng phẩm vật kính lá»… bà Chúa kho, cầu mong má»™t năm má»›i an lạc thịnh vượng và hạnh phúc. Ông Nguyá»…n Văn Quân, Trưởng Ban Quản lý cụm di tích đền Bà Chúa Kho cho biết: “Khách thập phương về ngắm cảnh, hành lá»… tại đây năm sau đông hÆ¡n năm trước, tập trung nhiều nhất vào 3 tháng lá»… há»™i từ tháng Chạp sang đến Giêng, Hai. Có ngày, lượng khách lên đến hàng nghìn người, chúng tôi phải huy động toàn bá»™ 500 thành viên trong Ban Quản lý ra để trá»±c và phục vụ. Sau mùa lá»… há»™i, tiền công đức được dùng để trùng tu, mua sắm đồ thờ, dụng cụ ngay năm đó. Trung bình má»—i năm tính cả tiền mặt và hiện vật được nhân dân công đức có giá trị khoảng hÆ¡n 1 tá»· đồng…”.

Có thể nói, hiện tượng tín ngưỡng thờ mẫu ở đền Bà Chúa Kho là nét văn hoá dân gian vừa làm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng tâm linh vốn có của một bộ phận người dân Việt vừa giúp các hộ dân trong vùng phát triển nghề dịch vụ, tăng thêm thu nhập gia đình. Đồng thời, tạo thêm nguồn kinh phí để trùng tu, tôn tạo các công trình trong cụm di tích ngày càng khang trang, tố hảo. Lại sắp bước vào mùa lễ hội, hy vọng các cơ quan chức năng sớm quan tâm, phối hợp chặt chẽ bảo đảm an ninh trật tự, văn minh quanh khu vực cụm di tích để vượng khí tốt lành của đền Bà Chúa Kho được ban phát đều khắp cho tất cả dân chúng đến vãn cảnh và hành lễ nhằm giữ gìn nét văn hoá lành mạnh trong đời sống tín ngưỡng của nhân dân.

(Nguồn: bacninh.gov.vn)