Về huyện Gia Lộc, cách thị trấn khoảng 3 km về phía Tây, đi qua những cánh đồng lúa đang trổ bông đón gió, ta sẽ đến Đền Quát tại Hạ Bì (vốn là một làng chài ở tả ngạn sông Đáy) - nơi thờ Yết Kiêu, một danh tướng tài đức song toàn, đặc biệt là tài thuỷ chiến trời Trần.
Tương truyền Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế, con ông Phạm Hữu Hiệu và bà Vũ thị Duyên người thôn Hạ Bì. Cha làm nghề chài lưới bên sông Quát, mẹ bán hàng nước ở bến đò. Cuộc sống bần hàn của một gia đình ngư dân nghèo khó và sớm mồ côi cha đã khiến ngay từ nhỏ, Phạm Hữu Thế đã rất vất vả, phải chài lưới, cào hến kiếm ăn giúp mẹ. Năm 15 tuổi, vào một buổi sáng tinh mơ, Phạm Hữu Thế ra sông gánh nước. Sương trắng mù mịt nổi khắp mặt sông, Phạm Hữu Thế thấy 2 con trâu trắng húc nhau liền dùng đòn ống đánh đuổi, can ngăn chúng. 2 con trâu biến mất, Hữu Thế thấy còn 2 chiếc lông còn dính vào đòn ống, đặt xuống nước ông thấy nước rẽ ra làm đôi. Cho đây là lông trâu thần, ông liền nuốt vào bụng. Từ đấy, Phạm Hữu Thế có thân thể hùng cường, trí lực, bơi lội tài giỏi, đi trong nước như ở trên đất bằng vậy. Sự lạ lùng ấy ứng với bức hoành phi trong đền Quát “Thiên cổ dị nhân”(từ trước tới nay mới có người lạ thường như vậy) và đôi câu đối “Bạch ngưu mao hiển xa chung tú. Ô mã tâm hàn hải để quy”.
Trong cuộc khánh chiến chống quân Nguyên Mông lần 2 và lần 3. Phạm Hữu Thế với tài bơi lội “nhập thuỷ như phúc bình địa hỹ” (đi dưới nước ung dung, tự tại như trên đất bằng) đã lập nhiều công lao lớn cho chiến thắng của vua tôi nhà Trần. Ông đã được nhân dân và vua quan nhà Trần gọi là Yết Kiêu (tên một loài cá lớn ngày xưa).
Trong 2 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, nhiệm vụ của Yết Kiêu là tìm cách đục thuyền của giặc trong đêm. Khi màn đêm buông xuống, Yết Kiêu tìm cách vượt qua hàng lính bảo vệ thuyền giặc rồi nhẹ nhàng đục thuyền giặc. Mỗi thuyền phải đục khoảng trên 20 lỗ, đục được lỗ nào lại phải dùng giẻ đã cuộn tròn và buộc dây đút lút lại. Những cuộn giẻ ấy đều được buộc lại với nhau bằng một sợi dây. Một đêm, Yết Kiêu thường đục được khoảng 30 thuyền giặc. Đến gần sáng khi đã đục đủ số thuyền đã định, Yết Kiêu liền kéo dây khiến những nút giẻ trôi ra khỏi thuyền, khiến hàng chục thuyền giặc bị đắm. Hoàn thành nhiệm vụ, ông lại nhẹ nhàng bơi về địa điểm an toàn. Những việc làm của Yết Kiêu đã góp phần to lớn vào chiến thắng cuối cùng của vua tôi nhà Trần. Khi bình xét chiến công, vua quan nhà Trần đã phong tặng Yết Kiêu danh hiệu Trần triều đệ nhất đô soái thuỷ quân.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2 năm 1285, trước sức mạnh của giặc, quân ta buộc phải lui quân. Hưng Đạo Vương định bỏ thuyền để đi theo đưòng núi, nhưng trước khi đi có dặn Yết Kiêu cứ giữ thuyền chờ ông trở lại. Dã Tượng nói :Đại Vương chưa xuất bến, Yết Kiêu sẽ không rời thuyền đi chỗ khác. Quả thực, khi đến Bãi Tân chỉ duy còn mình thuyền của Yết Kiêu còn đợi ở đấy. Đại Vương cả mừng mà nói rằng “Chim hồng hộc bay được cao và xa là nhờ có 6 cái lông cánh, nếu không có 6 cái lông cánh ấy thì cũng như chim thường thôi”. Yết Kiêu làm tròn nhiệm vụ với chủ tướng, đưa Đại Vương về căn cứ an toàn, quay lại trận địa để thị sát tình hình thì quân bị Nguyên Mông phát hiện. Đội quân của giặc có thuỷ binh, bộ binh bao vây. Yết Kiêu chiến đấu quyết liệt nhưng vòng vây mỗi lúc một khép chặt. Đúng lúc nguy cấp ấy, có một con cá lớn nổi lên, Yết Kiêu nhảy lên lưng cá bơi lặn xuống lòng sông trở về căn cứ an toàn.
Một lần khác, Yết Kiêu bị vây bắt ở bãi sông. Ông núp mình dưới những bụi cây mọc lúp xúp và tránh sự lùng sục gay gắt của quân thù. Kẻ thù dùng kiếm đâm vào bụi cây đúng vào đùi Yết Kiêu. Yết Kiêu cắn răng chịu đựng, khi kẻ thù rút kiếm ra, ông cố gắng chịu đau và dùng tay lau vết máu dính trên lưỡi kiếm để kẻ thù không phát hiện thấy mình, tình hình vô cùng nguy hiểm... Đúng lúc gay cấn ấy, một con cáo từ trong bụi cây lao ra đánh lạc hướng của kẻ thù và giải vây cho Yết Kiêu.
Từ truyền thuyết trên, dân gian đã phỏng theo dáng hình cá và cáo tạo mõ để làm đồ thờ, đặt tên là cáo thần và cá thần. Hiện nay, mõ cá và mõ cáo được nhân dân Hạ Bì (làng Quát, xã Yết Kiêu) đặt thờ trang trọng trong đền Quát, như muốn kể lại với đời sau những gian nan mà Danh tướng Yết Kiêu đã trải qua để giữ gìn độc lập cho non sông Đại Việt.
Sau kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi, bảng nhãn Lê Đỗ được triều Trần cử sang Nguyên triều đi sứ, mong nối lại hoà khí với nước mạnh hơn mình mà mang lại hoà bình cho nhân dân đất Việt.
Yết Kiêu vốn là võ tướng thuỷ quân được cử làm tướng hộ vệ Lê Đỗ trên đường đi. Trong lần đi sứ ấy, vua Nguyên rất mến mộ tài năng của Yết Kiêu liền gả công chúa Nguyên triều vốn rất xinh đẹp cho ông. Ông liền từ chối khéo và thưa rằng để trở về tâu xin vua Đại Việt, nếu vua Đại Việt đồng ý thì sẽ xin sang Nguyên triều làm lễ cưới.
Trở về đất nước, vua quan triều Trần lo lắng sẽ mất một viên tướng tài giỏi nên không đồng ý. Công chúa Nguyên triều đợi mãi không thấy Yết Kiêu sang thì xin vua cha cho sang đất Đại Việt để làm lễ thành hôn với Yết Kiêu. Biết tin này, vua quan nhà Trần báo tin Yết Kiêu đã qua đời khi công chúa mới đi đến vùng biển Quảng Đông giáp biên giới Đại Việt. Công chúa vô cùng thương xót Yết Kiêu, bèn thuê người tạc tượng mình thả xuôi sang nước ta,lập đàn cầu siêu cho linh hồn Yết Kiêu bên bờ biển tỉnh Quảng Đông và cầu nguyện “Thiếp và chàng sống trên trần thế chưa nên duyên chồng vợ, nay chàng không còn nữa, thiếp nguyện thác xuống âm phủ để gặp chàng và nên nghĩa vợ chồng”, rồi gieo mình từ đàn cầu siêu xuống biển Quảng Đông để tỏ lòng chung thuỷ. Hai võ quan và chín nàng hầu cũng nhẩy xuống biển tự vẫn để theo hầu công chúa.
Tượng công chúa Nguyên triều trôi đến cửa sông Quát thì dừng lại. Khi biết rõ sự tình, nhân dân ta rước tượng lên, tạc thêm tượng 2 võ quan và 9 nàng hầu công chúa, thờ tự và tỏ lòng kính trọng tấm lòng trong trắng, chung thuỷ, tiết nghĩa của công chúa Nguyên triều và những người bảo vệ, người hầu hết lòng vì chủ. Tượng Yết Kiêu và công chúa Nguyên triều được đặt trong 2 cỗ luyện gỗ vàng tâm, còn tượng 2 võ quan và 9 nàng hầu thì để thờ trần như bình thường. Hàng năm tại đền Quát khi làm lễ tế đều có tế công chúa Nguyên triều. Khi làm lễ rước công chúa thì phảilà những cô gái chưa chồng mới được rước bà.
Yết Kiêu mất ngày 28 tháng Chạp năm ất Sửu (1303), hưởng thọ 61 tuổi . Khi ông mất, vua Trần cho lập đền thờ ở bờ sông Hạ Bì là nơi quê ông là đền Quát. Khu đền đã trải qua hơn 700 năm , đến thế kỷ XVII- XVIII được tôn tạo khang trang và tu sửa nhiều lần vào triều Nguyễn. Trải qua những năm tháng chiến tranh, cổ vật tại đền Quát còn lại không nhiều. Về đồ đá còn lại hai tấm bia, 2 phỗng đá, 2 tượng đá, 2 sấu đá. Về đồ gỗ còn lại tượng Yết Kiêu và công chúa Nguyên triều, 2 khám thờ và một số đồ tế tự khác như mõ cá, mõ cáo. Hiện vật bằng giấy còn lại 4 sắc phong được ban tặng vào các năm: Cảnh Hưng năm thứ 44 (1783), Cảnh Thịnh năm thứ 4 (1796), Tự Đức năm thứ 6 (1853), Khải Định Năm thứ 9 (1924). Khu di tích đền Quát đã được xếp hạng Quốc gia (28/1/1989). Lễ hội đền Quát thường diễn ra vào rằm tháng Giêng và rằm tháng Tám. Vào dịp này, nhân dân địa phương và khách thập phương lại trở về vùng sông nước Hạ Bì, trước là lễ tạ Thành hoàng Yết Kiêu, sau là dự hội làm bánh, hội đua thuyền ...
Ngựa đá, voi đá trong đên Quát
Trải qua những thăng trầm của lịch sử, đền Quát và những gì thuộc về Danh tướng Yết Kiêu vẫn còn đó, đó là tài sản vô giá, là niềm tự hào của nhân dân Gia Lộc. Hiện tại, đền Quát đang được UBND huyện Gia Lộc tu sửa theo nguyên tắc giữ nguyên diện tích và kiến trúc chữ Đinh cũ, nhưng quy mô thì lớn hơn, đẹp đẽ, tinh xảo cho xứng tầm với vị thế anh hùng của một danh tướng xứ Đông xưa. Cũng qua đó, khôi phục và phát huy những giá trị văn hoá để giáo dục truyền thống, giáo dục nhân cách cho các thế hệ trẻ đời sau.
Nguyễn Thu Hà
Ban Tuyên giáo Thành ủy Hải Dương