Phù Đổng, đó là một vùng đất nằm kề bên bờ tả ngạn sông Đuống, trước đây thuộc phủ Tiên Du tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, cách trung tâm Hồ Gươm hơn 10 km theo đường chim bay.
Theo truyền thuyết, Phù Đổng là nơi sinh ra Thánh Gióng. Mẹ Gióng ướm bước chân thần ở vườn cà mà sinh ra. Thời Hùng Vương thứ sáu, giặc Ân xâm lược nước ta, Gióng lên ba, thoắt nói, thoắt cười, thưa mẹ đòi sứ giả vào, xin nhà Vua sắm cho ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt. Vua Hùng cho người mang đến.
Sau “Bảy nong cơm, ba nong cà. Uống một hơi nước cạn đà khúc sông”. Gióng vươn vai cao lớn khác thường, mặc giáp sắt, cầm roi sắt, lên ngựa sắt. Ngựa sắt phun lửa xông vào quân giặc. Trận chiến đấu ác liệt, roi sắt gẫy, Gióng nhổ cả bụi tre đằng ngà đánh giặc. Giặc tan, Gióng cưỡi ngựa lên núi Sóc Sơn bái vọng Mẹ rồi bay về trời.
Theo tục truyền, cứ đến ngày 9/4 âm lịch hàng năm, dân làng lại tổ chức lễ hội Gióng, một sinh hoạt văn hoá dân gian đặc sắc. Qua các diễn xuất trong hội lễ, người ta có thể liên tưởng những bài học về chiến tranh nhân dân, suy ngẫm cách nhìn kẻ thù, hiểu thêm về thẩm mỹ truyền thống, cũng như đạo lý ứng xử con người trong tiến trình lịch sử...
Có rất nhiều người viết về Phù Đổng Thiên Vương, về cả thần tích, di tích và lễ hội. Song, rõ ràng rằng từ xưa đến nay chưa có một ai để tâm mà giải mã những hiện tượng văn hoá liên quan đến Đức Thánh Phù Đổng. Chúng ta hiểu rằng Đức Thánh Phù Đổng Thiên Vương là một trong “ Tứ bất tử”. Trong “ Tứ bất tử” này của người Việt thì rõ ràng chỉ chấp nhận Đức Thánh Phù Đổng và Tản Viên sơn thánh là tư cách của anh hùng văn hoá đích thực còn Chử Đồng Tử và Mẫu Liễu Hạnh chỉ là những vị thần về sau mang yếu tố của các thần linh không phải dạng anh hùng văn hoá vì Chử Đồng Tử và Mẫu Liễu Hạnh là những vị thần đã được quan tâm tới và đề cao ở thời kỳ sử đã thành văn. Đức thánh Phù Đổng Thiên Vương và Tản viên sơn thánh là những người được nảy sinh từ thời cổ đại, tiền sử. ở đây chúng ta hiểu rằng trong quá trình phát triển của cư dân Việt, các vị anh hùng văn hoá thường được gắn với các sự kiện rất lớn của người Việt. Nếu như chúng ta biết rằng Đức thánh Tản Viên ở tận vùng núi cao xa, Ngài là bạn thân của Thủy Tinh nhưng ở đấy “ Sơn thuỷ hữu tình”. Đến khi người Việt lùi xuống phía dưới, biết đắp đê ngăn lụt thì lúc đó Tản Viên mới trở thành có tính chất là kẻ thù đối với Thuỷ Tinh mà biểu hiện bằng sự kiện lấy con gái vua Hùng. Đó là một hiện tượng sử hoá các anh hùng văn hoá. Nhưng khi người Việt đã xuống đến châu thổ cao giáp với châu thổ thấp thì người Việt lúc đó chủ yếu sử dụng công cụ bằng đồ đồng, đồ đá. Nhưng vì công cụ này không có cách nào mà khai phá được những châu thổ thấp và đến lúc này người ta phát hiện ra đồ sắt và chỉ có đồ sắt mới có khả năng chặt được những cây lớn và khai phá những rừng rậm ở châu thổ thấp, đầm lầy mà thôi. Chính do phát hiện ra đồ sắt và thấy cái sức mạnh của sắt vô cùng to lớn như thế thì sức mạnh này được hội tụ và nhân cách hoá để trở thành một vị thần vĩ đại. Vị thần vĩ đại ấy đã góp phần tạo nên một sức mạnh của dân tộc, đại diện cho sức mạnh của dân tộc khai phá châu thổ thấp. Và, người Việt chỉ có thể trở thành một quốc gia, một dân tộc đầy đủ khi đã khai phá châu thổ Bắc Bộ. Cũng chính từ vùng thấp này, người Việt mới tạo đà để phát triển, để ra đi tiến tới một đất nước to lớn, thống nhất của cộng đồng như ngày nay. Như vậy chúng ta hiểu rằng Đức thánh Phù Đổng Thiên Vương đã đánh dấu một bước phát triển đặc biệt của dân tộc chúng ta ở thời kỳ sơ sử, tiền sử. Và, chỉ có từ Ngài mà chúng ta mới phát triển lên được, đặc biệt là phát triển nông nghiệp. ở đây với công cụ đồ sắt được quy tụ vào cái gậy của Ngài, khi Ngài cầm gậy đi đánh giặc và giặc ở đây là giặc phương Bắc tới. Song, cái nạn xâm lược của giặc, nó đã ám ảnh tới huyền thoại, khiến cho dần dần Phù Đổng Thiên Vương cũng tham gia vào chống giặc phương Bắc. Tuy nhiên chúng ta nên hiểu, chống giặc phương Bắc đó là một cuộc trường chinh về sản xuất, một cuộc trường chinh với sức mạnh của đồ sắt buổi đầu khai phá châu thổ Bắc Bộ. Chúng ta biết rằng lúc đầu, đồ sắt chưa được tốt nên khi Ngài đi đánh giặc mà thực chất là người Việt tiến xuống châu thổ thấp thì công cụ đồ sắt còn nhiều tạp chất nên đã hội tụ ở chỗ “ Gậy sắt của Đức Thánh bị gãy”. Đó là một điều nên hiểu Đức Thánh Phù Đổng Thiên Vương là một sự thần thoại hoá hay huyền thoại hoá sức mạnh của dân tộc ta trên bước đường khai phá đất nước. Đây là một dấu ấn vị trí tiếp giáp giữa châu thổ cao với châu thổ thấp để nói nên bước phát triển của dân tộc... Tuy nhiên chúng ta cũng thấy rằng huyền thoại được xây dựng trên cả một chằng chuỗi liên tục như thế thì Đức Thánh Phù Đổng Thiên Vương cũng đã được hội tụ ở trong Ngài những yếu tố cả trước lẫn sau. Cái yếu tố trước là gì? Ngài là con của một bà mẹ đồng trinh. Bà mẹ này có thể coi như một bà mẹ đất nhưng dựng cái quá khứ dậy để tiến vào tương lai được thể hiện rất rõ ở đây. Bà mẹ đồng trinh ấy dẫm vào vết chân của Người Khổng Lồ sinh ra ngài. Đó là hiện tượng “ Thiên nhân hợp khí”. Bởi vì trong quan niệm của người xưa thì Người Khổng Lồ tức là một thần linh ở tầng trên hoặc là cái vết chân của Người Khổng Lồ như chúng ta đã biết, loài người đã đi qua hai thế hệ. Thế hệ trước là Người Khổng Lồ rất ngờ nghệch đã bị trận đại hồng thuỷ quét sạch đi và để lại những vết chân rất nhiều trên trái đất này. Như chúng ta biết, di duệ của Ngài ví như Đức thánh Chèm ( Lý Ông Trọng) cũng là một thần chống lụt và rất nhiều hồ nước để chống hạn cũng được hoá thân của những vết chân Người Khổng Lồ. Vấn đề dựng Người Khổng Lồ dậy để xây dựng tương lai thì đó là nhu cầu của mọi thời và đó là bài học cho cả chúng ta hiện nay. Bởi không một kẻ nào muốn bước vào tương lai mà không nhìn quá khứ. Trong thời kỳ này chúng ta dựng dậy để tiếp bước xuống phía dưới. Bằng hình tượng bà mẹ dẫm chân vào vết chân của Người Khổng Lồ là dựng lịch sử dậy. Ở đây chúng ta còn thấy một đặc điểm khác nữa trong lễ hội. Lễ hội có rất nhiều tục lệ đi theo nhưng đáng quan tâm trong lễ hội này là ở chỗ con ngựa trắng và ông hiệu cờ là quan trọng nhất. Khi chúng ta thấy có 28 thiếu nữ tượng trưng cho tướng giặc, thực chất tượng trưng cho tinh tú. Mà sử dụng những cô bé còn ngây thơ là biểu hiện hồn nhiên như bầu trời. Người Việt lấy thờ Mẫu làm trọng thì sự ngây thơ ấy cũng xuất phát từ nữ giới. Đó là một ý kiến. Song, ý kiến này đáng được tin theo. ý kiến khác là người ta đi rước vào giữa trưa và rước ngựa trắng đi và chỉ ngựa trắng thôi. Ngựa trắng là “Bạch Mã” tượng trưng cho sức mạnh linh khí của trời và tượng trưng cho phương Đông, cho mặt trời cho nên khi rước, người ta cầu cho có được sinh khí tràn về cho trần gian, cho muôn loài sinh sôi. Và, trong tục lệ của người dân ở đây, nhiều người tin rằng khi rước ngựa trắng ra thì trời bao giờ cũng nổi gió. Có nghĩa là trời ứng vận vào người “Thiên nhân hợp khí” mà tạo cho khí thiêng của trời tràn về trần gian. Và, khi rước về thì sinh khí đó nó hội tụ vào lá cờ đỏ. Lá cờ đỏ là của ông hiệu cờ. Mầu đỏ là mầu của sinh khí, mầu của bầu trời – mầu của sức sống trường miên. Mầu đó gắn với thần linh. Cái mầu ấy có tràn về thì muôn loài mới phát sinh phát triển được. Cho nên vai trò của ông hiệu cờ là rất quan trọng. Múa cờ đỏ là nói là nói nên cái vận động sinh khí của bầu trời. Trong vận động sinh khí ấy, ông hiệu cờ đạp lên ba cái bát – tượng trưng cho “ Tam sơn”. Thông qua “ Tam sơn” mà sinh khí tràn xuống đất và nước. Chỉ có thế thì sức sống mới được phát triển và cái ước vọng qua ngày hội mới trở thành ước vọng được mùa, ước vọng của phồn thực, ước vọng của sự no đủ. Và, chính qua nhận thức của người xưa đối với Phù Đổng Thiên Vương – một uy lực siêu phàm như vậy thì người xưa đã quan tâm đến nơi thờ của Ngài. Nơi thờ là đền Phù Đổng Thiên Vương, ngôi đền này còn để lại rất nhiều dấu ấn mà chúng ta cần phải trân trọng. Khi nghệ thuật của người Việt trở lại với dân gian tức là vào thế kỷ XVI. Chính ngay vào thế kỷ XVI này, những viên gạch rồng và hoa thể hiện rất rõ rệt ở đền Phù Đổng. Sau đó đền được khang trang với sự đóng góp của nhân dân và các ông quận nên đẹp đẽ hơn.
Chúng ta hãy điểm qua những di tích ở Phù Đổng có liên quan đến truyền thuyết Thánh Gióng.
Đền Thượng: Đền thờ Thánh Gióng. Theo truyền thuyết, đền đã có từ thời Hùng Vương và được dựng trên nền nhà cũ của mẹ Gióng. Đến cuối thế kỷ XI, Lý Thái Tổ cho tu bổ thêm và ra lệnh tổ chức hội Gióng. Đền sát đê, được bố cục theo hình chữ “ công”, quy mô rộng rãi.
Trước sân, ngay sát chân đê có ao rộng, có tên ao rối, nơi hàng năm có tổ chức múa rối nước vào ngày hội. Trong ao, dưới bóng cây đa cổ thụ cành lá sum suê, là ngôi thuỷ đình xinh xắn. Thuỷ đình được dựng theo kiểu “ mái chồng” từ thời Lê Trung Hưng ( thế kỷ XVII) với nhiều bức chạm tinh vi trên gỗ, mà đề tài là những cảnh sinh hoạt dân gian: người chăn dê, người thổi ống xì đồng... Thuỷ đình mang nhiều yếu tố dịch học mà trên đó những mảng chạm nói nên những ước vọng của dân chúng. Cụ thể là người xưa quan niệm: “ Phi trí bất hưng, phi thương bất phú, phí công bất hoạt, phi nông bất ổn” thì các cụ đã lấy trí làm đầu. Mà trên đó có hai mảng chạm, một mảng chạm đề rất rõ là:
“Quân tử trúc tố tâm phùng mỹ lộc
Trượng phu tùng ngưỡng diện xạ phượng hoàng”
Đó là hai hình ảnh có đề rõ rệt để nói nên người quân tử lấy cái trí thức làm đầu, nếu không có trí thì con người đi vào ngu tối mà sự vô minh, ngu tối thì đồng nghĩa đồng thời là mầm mống của tội ác. Thông qua đó thấy rằng, người xưa dậy phải lấy cái trí tuệ làm đầu, nhờ có trí tuệ mà đi vào thiện tâm.
Qua sân gạch đến Nghi môn khá cao mới được xây vào cuối thế kỷ XIX. Phía trước có đôi rồng đá nét chạm hơi thô nhưng rất khoẻ, bên dưới có doìng chữ khắc cho biết niên đại tạo tác của rồng vào năm ất Dậu niên hiệu Vĩnh Thịnh, tức năm 1705 dưới triều Vua Lê Dụ Tông. Phía sau có đôi sư tử đá cũng làm vào năm đó.
Tiếp đến là nhà Thiêu hương ( đốt hương), cấu tạo giống Thuỷ đình nhưng nhỏ hơn, lợp bằng ngói kích tấc khá lớn ( 20 cm x 30 cm).
Liền nhà Thiêu hương là hai nhà Tiền tế khá rộng. Nhà ngoài do Điền Quận công Nguyễn Huy ( 1610 - 1675), người làng Phù Dực, cạnh xã Phù Đổng đứng ra xây dựng. Nhà bên trong do Đặng Công Chất, người chính làng Phù Đổng, đỗ Trạng nguyên năm 1661, đứng ra hưng công. đáng chú ý ở đây là 39 viên gạch với kích tấc 30 x 20 x 10( cm), mỗi viên đều chạm khắc hình rồng. Những viên gạch này được lát ở bậc thềm vào cung. Hai ngôi nhà ba gian phía đông do Đặng Thị Huệ chính công của chúa Trịnh Sâm (thế kỷ XVIII) cung tiến.
Trong Hậu cung 12 gian có tượng Thánh Gióng cao 3m, hai bên có sáu tượng quan văn, quan võ, hai phỗng quỳ và bốn viên hầu cận “ tứ trấn”.
Kiến trúc đền không có gì đặc biệt, nhưng đáng chú ý là những đầu bẩy còn lưu lại được những mảng chạm vào thời Hậu Lê.
Đền còn lưu được cả thảy 21 đạo sắc phong, đời Lê 12 đạo, đời Tây Sơn 3 đạo, đời Nguyễn 6 đạo. Cũ nhất là sắc phong Đức Long năm thứ 5( 1634).
Trong Đền, còn nhiều hiện vật có giá trị: chiếc ngai thờ từ thời Lê TRung Hưng ( thế kỷ XVII) chạm trổ tinh vi; đôi chim mang nghệ thuật Trung Hoa do Đặng Thị Huệ cung tiến, bình hương, nghê đồng, hai thanh kiếm, câu đối do anh em thi hào Nguyễn Du cung tiến năm 1818. Bên Đền có một bia đá rất đẹp, cũng là một hiện vật hiếm thấy tại các ngôi đền khác ở nước ta.
Đền Hạ: đền nằm ngoài đê, ở phía đông đền Thượng. đền là nơi thờ mẹ Thánh Gióng, cũng gọi là Thánh Mẫu. Trước kia, Thánh Mẫu được thờ chung với Thánh Gióng ở đền Thượng. Đến năm Chính Hoà thứ 4 ( 1683), Thánh Mẫu mới thờ ở đền riêng tại thôn Ngô Xá. Mười năm sau đền lại được thiên về gần chùa Giếng ( chùa Tập Phúc), tại chỗ hiện nay. Đền hiện còn lưu giữ được một số hiện vật có giá trị : đôi phỗng đá, một bộ dài bạc, hai bình hương đá...
Miếu Ban: ở phía tây đền Thượng, trong xóm Ban, tên chữ là Dục Linh Từ. Miếu thờ Thánh Mẫu. Tương truyền đây là nơi Gióng ra đời, do đó còn có tên là “ Trài Nòn”. Miếu lợp ngói cổ hình mũi hài. Sau Miếu là giếng Bát Nhũ trì ( ao tám vú), giữa giếng nổi lên một gò đất con xinh xắn. Truyền rằng, Thánh Gióng ra đời trên sập hiện đặt ở đảo này, sau đó được tắm trong chậu đá cũng đặt ở đây. Ngoài ra, còn có một liềm đá mà người ta đã xem là dao cắt rốn cho Thánh Gióng, nhưng liềm hiện nay không còn nữa.
Cố viên: Theo truyền thuyết, cố viên ( vườn xưa), cũng gọi là “vườn rau”, là nơi mẹ Gióng đến hái rau rồi ướm chân mình vào chân người Khổng Lồ, do đó mà mang thai sinh ra Gióng. ở đây có một nhà nhỏ gọi là “ cây hương”, bên cạnh là hòn đá lớn hình thù đặc biệt với nhiều nét lồi lõm được xem là dấu chân của Người Khoỏng Lồ. Còn một tấm bia mang dòng chữ “ Đổng viên Thánh Mẫu cố trạch” ( Nhà xưa của Thánh Mẫu trong vườn Đổng).
Giá Ngự: ở đây có hai cột trụ và một bệ xây vào đầu thế kỷ XX. Vào ngày hội Đền, dân làng kéo ngựa thờ, gọi là ông giá, từ đền Thượng đến đây trông ra khu soi bia cạnh Đền Hạ nơi điệu múa cờ được biểu diễn.
Mộ Trần Đô Thống: Mộ ở xóm Vận Hang, trước đền Thượng. Tục truyền Đô Thống là một tướng của Thánh Gióng, người Phù Dực cầm đạo tiên phong trong đoàn quân chống giặc Ân. Mộ được xây bằng gạch giữa một khu rộng ngoài bãi sông.
Hàng năm, từ mồng 6 đến mồng 2 tháng 4 âm lịch, dân địa phương lại tổ chức hội Gióng, ngày lễ chính là ngày mồng 9. Trước ngày này, dân làng đã tổ chức nhiều trò chơi: Vật, chọi gà, đánh cờ, hát, đặc biệt là hát ảilao – một tục rất cổ. Trong ngày lễ lớn vui nhất là trò diễn trận, rước kiệu, múa cờ, chia phe diễn lại sự tích Thánh Gióng đánh giặc Ân.
Nhân vật anh hùng Gióng đã trở thành biểu tượng của sức mạnh và lòng yêu nước Việt Nam. Hội Gióng là một đỉnh cao của sinh hoạt văn hoá cổ truyền Việt nam. Vì thế, người Việt nam xưa và nayvẫn nhắc nhau lời răn:
“ Ai ơi mồng chín tháng tư,
Không đi hội Gióng cũng hư mất đời’’
Không chỉ là Làng Phù Đổng. Trong khu vực Đền Hùng ở Vĩnh Phúc, có Đền Thượng, tức “ Cửu trùng tiền điện ” được dành để thờ Thánh Gióng. Làng Vệ Linh ở huyện Sóc Sơn phía bắc thủ đô Hà nội, nơi tương truyền Gióng đã trút giáp để cùng ngựa về trời, cũng có đền thờ, Gióng được nhà nước quân chủ tặng danh hiệu lớn: “Xung thiên Thần vương ”.