Chùa thờ Phật và còn hợp tự, trong đó 1 vị Thành hoàng của
làng Xã Đàn (Xã Tắc cũ). Vị Thành hoàng ấy theo truyền thuyết dân gian và sắc
phong là Bảo Hoa công chúa, có rất nhiều công lao trong việc giúp Lý Thường Kiệt
phá tống, bình Chiêm để bảo vệ đất nước Đại Việt. Sắc phong Cảnh Thịnh 4
(21-5-1796) của triều đại Tây Sơn là bằng chứng cụ thể về công lao của bà.
Chùa được dựng
từ xa xưa, những tấm bia còn lại sớm nhất là bia năm Quang Thiệu 5 (1520) đời
vua Lê Chiêu Tông (1516 -1522) nói rằng chùa được xây dựng từ xa xưa và đến những
năm tháng này các hộ chủ hưn công tu tạo. Theo truyền thuyết, Bảo Hoa công chúa
được thờ tự ở chùa Xã Đàn chính là chị gái của anh hùng Lý Thường Kiệt. Bà giỏi
cả văn lẫn võ. Hiện vật còn lại trong chùa là 1 cột đá dài hơn 1m, nằm ở cạnh
giếng chùa. Đây là một di vật văn hóa quý có hình ảnh như chùa Một Cột, mà chỉ
thấy xuất hiện ở thời Lý. Tập Việt sử thông giám cương mục ở triều Nguyễn ghi lại
“Cùng với quá trình xây dựng kinh thành Thăng Long, vào năm 1048 dưới triều đại
Lý Thái Tông, đàn Xã Tắc đã được xây dựng ở phía tây nam kinh thành mà hiện nay
dấy tích ta còn thấy rõ ngay bên chùa Xã Đàn”. Từ đây có thể đoán định và xác
nhận rằng chùa Xã Đàn có từ buổi đầu Kinh thành Thăng Long cho tới tận hom nay,
cùng thời với chùa Đồng Cổ, nơi hội thề bảo vệ non sông xã tắc.
Chùa Xã Đàn
vào những năm kháng chiến chống Pháp đã là nơi tập trung của dân quân tự vệ,
nơi tạm trú sau các trận đánh. Chùa đã góp hàng tấn thóc gạo cho bộ đội và cũng
là nơi băng bó chăm sóc thương binh. Chùa Xã Đàn còn là nơi chữa bệnh cho nhân
dân trong vùng, mà đến nay vườn cây thuốc của chùa vẫn còn rất nhiều những cây
thuốc quý. Đây là nét điển hình của một chùa Phật giáo Việt Nam.
Ngoài cột đá
nói trên, dấu vết xưa nhất của chùa gốm các công trình kiến trúc chính sau:
chùa chính, nhà Tổ, nhà Mẫu, nhà khách và tháp mộ các vị sư đã viên tịch tại
đây, trong vườn cây rộng lớn. Kiến trúc xưa nhất còn lại là các viên gạch vồ của
thế kỷ XV-XVI. Chùa chính đựng theo kiểu chữ Đinh, quay hướng đông nam, có 4
gian khá rộng. Năm bộ vì của Thượng điện có 3 dạng kết cấu khác nhau: vì ván
mê, vì chồng rường giá chiêng, vì chồng rường con nhị. Nhà Tổ có 4 gian xây
ghép vào phía tường mặt bắc của Hậu cung.
Nhà Mẫu còn gọi
là đền vì đình và đền Xã Đàn khi bị phá đi thì mọi di vật còn lại được chuyển về
chùa này và được thờ tại đây. Nhà Mẫu được xây dựng liền với Hậu cung.
Nhà Tổ có 6
pho tượng thờ các vị sư tổ của chùa. Nhà Mẫu thờ tượng Bảo Hoa công chúa ngồi
trong ngại rộng. Trên cao là bức hoành phi “Nữ trung hào kiệt”. Tương truyền bá
mất ở khu vuecj ở đền Cây Si, ngõ Xã Đàn hiện nay, vì vậy nhân dân ở đây đã lập
bà làm Thành hoàng. Sau khi đền bị phá việc thờ tự bà được chuyển vào nhà Mẫu của
chùa Xã Đàn hiện nay. Tới nay vào ngày 2-2 âm lịch nhân dân Xã Đàn lại làm giỗ
để tưởng niệm bà, người có công lớn với dân với nước.
Chùa còn nhiều
pho tượng được tạo tác ở thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX.
Tại chùa còn 5
bia đá, sớm nhất là bia Quang Thiệu 5 (1520) đời vua Lê Chiêu Tông và bia cuối
cùng có niên đại Thành Thái 14 (1902).
Chùa còn 1
chuông đồng lớn, cao 100cm, chu vi 160cm, ghi rõ Xã Đàn phường, tổng Vĩnh An,
huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội.
Chùa Kim Yên gắn
bó với đàn Xã Tắc. Qua thời gian lịch sử lâu dài, chùa vẫn là một ngôi chùa có
quy mô tương đối lớn giữa nội thành, còn giữ được nhiều di vật từ xa xưa. Nhắc
tới Xã Đàn, người đời vẫn còn ngâm ngợi:
Xã Đàn thuộc phía hữu Thăng Long
Phật ngự Kim Yên đỉnh chín rồng
Hàng năm tại
nơi đây nhà vua xưa đích thân ra làm lễ tế cáo trời đất.
Chùa Xã Đàn
không những là di tích cổ lâu đời mà còn là nơi chứng kiến lịch sử trong cuộc
kháng chiến chống Pháp (1947-1854). Sư cụ Thích Đàm Bình từng trụ trì chùa trên
70 năm đã có nhiều đóng góp trong cuộc kháng chiến chống Pháp của Thủ đô. Chùa
đã được công nhận Di tích lịch sử - văn hóa năm 1990.