BỘ CÂU ĐỐI VÔ CÙNG QUÍ GIÁ NHÀ THỜ HÀ HỒI
TỔNG GIÁO PHẬN HÀ NỘI.
– Quê con ở đâu?
– Giáo xứ Hà Hồi, tổng giáo phận Hà Nội.
– Hà Hồi, Ngọc Hồi với trận chiến thắng quân Thanh cuối thế kỷ 19?
– Con không biết!
Sau đó là một cuộc truy tầm dài để rồi tôi có hôm nay bản pho to cuốn: Kỷ yếu Giáo xứ Hà Hồi nhâm dịp nhà thờ Hà Hồi vừa tròn 100 năm (1903 – 2003).
Qua đó, từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.
Một làng có lịch sử từ thời Lê-Trịnh, qua Tây Sơn…hai bên lương giáo sống hoà hợp. Câu đối khắp làng và nhiều lễ hội.
Ngạc nhiên nhất là ngôi thánh đường trên trăm tuổi, không chỉ là một khoảng không gian thờ phượng như các nhà thờ “không cột” hôm nay mà mỗi gian coa những ý nghĩa vô cùng phong phú mà chúng ta có thể chiêm ngưởng qua các câu đối tuyệt vời. Nhà thờ toàn gỗ lim vùng núi Hoà Bình, Phú Thọ. Nhà thờ có 20 cột ( 10 cột cái và 10 quân đặt trên đá tảng 10 cm. Chu vi cột 1,43m.
Có tất cả 11 cặp câu đối dài chưa từng thấy. Có câu dài đến 25 chữ.
(Xin cám ơn em Đức Phú bỏ nhiều công sức đánh máy. Đang chờ anh Phạm Văn Ly, người ghi hình khắp nơi mà không có ảnh Hà Hồi bên cạnh. Cám ơn Internet giúp giùm một số ănh minh hoạ về làng và nhà thờ Hà Hồi.)
Ý NGHĨA CÁC CÂU ĐỐI TRONG NHÀ THỜ.
( Đủ 11 đôi câu đối trong Nhà Thờ)
Nhà thờ Hà Hồi có 11 cặp câu đối chữ Hán rất quý, các chữ và các hoạ tiết đều được thiếp vàng, nền câu đối được sơn son. Tất cả 11 cặp đã được phiên âm và dịch nghĩa, được sắp sếp theo thứ tự từ cặp câu đối trên Cung Thánh đến gian thứ nhất dưới lòng Nhà Thờ có hai cột cái và hai cột quân; gian thứ hai cũng vậy và cứ thế cho đến hết vì cột gian thứ năm. Căn cứ vào sự sắp xếp như trên, ta lần lượt phiên âm và dịch nghĩa từng cặp câu đối như sau:
Cặp thứ nhất: CÂU ĐỐI TRÊN CUNG THÁNH
THIÊN CHÚA GIÁNG SINH
Phiên âm:
Vế bên phải: Hướng người đứng từ dưới lòng Nhà Thờ nhìn lên Cung Thánh.
1. Lập càn khôn chi chủ tể, triệu nhân vật chi căn tông chủng chi tiền hề vô thuỷ dẫn chi hậu hề vô chung (1) di lục hợp hề mị gian (2) siêu thứ loại hề năng đồng (3)
Vế bên trái:
2. Bổn vô hình chi nghi nghĩ nãi, giáng sinh chi di dung hiển thần hoá dĩ bác ái chiếu khuyến trừng dĩ đại công vị chí tôn nhi vô thượng lý vi diệu nhi nan cùng.
Dịch nghĩa:
1. Vị Chúa tể lập càn khôn, là căn nguyên con người và các vật. Trước khi có giống loài, thì Ngài vốn vô thuỷ, và về sau Ngài vẫn vô chung. Ngài hiện diện đầy vũ trụ, nào cần chi chùa miếu. Tuy Ngài siêu việt vậy mà đã nên giống con người hoàn toàn.
2. Đấng vố vô hình, loài người không nắm bắt được, bèn Giáng Sinh có hình tượng. Ngài tỏ thần tính của mình bằng các phép lạ bác ái. Ngài chịu chết để khuyên răn và lập công. Ngôi Thiên Chúa cao cả, Ngài làm những việc huyền diệu khó suy thay (5).
Chú thích của người dịch:
1. Sách khải huyền đoạn 1, câu 6: Ta là Alpha và Omega
2. Sách Tông đồ công cụ đoạn 17, câu 24, 25
3. Thánh thư Phaolo gửi giáo đoàn Philiphe đoạn 1, câu 6
4. Phúc âm Thánh Luca câu 18, 19
5. Thư gởi giáo đoàn Roma đoạn 11 câu 33, 34
CÂU ĐỐI Ở HÀNG CỘT GIAN THỨ NHẤT
( Sau hai gian Cung Thánh)
Phiên dịch: Câu đối hai cột cái
TAM VỊ NHẤT THỂ THIÊN CHÚA
( Là Thiên Chúa ba ngôi hay Một Chúa ba ngôi )
1. Hoàng hoàng vị Tam vô hình, vô tượng, vô thuỷ, vô chung, cao ngự cửu trùng Chân Chủ Tế.
2. Nguy nguy thể nhất toàn trí, toàn năng, toàn thiện, toàn mĩ, tạo thành vạn vật đại quyền hành.
Dịch nghĩa:
1. Sáng láng thay, Ba Ngôi vô hình, vô tượng, vô thuỷ, vô chung, là Chúa thật, ngự trên chốn Cửu trùng.
2. Cao cả thay một Chúa toàn trí, toàn năng, toàn thiện, toàn mĩ, quyền phép lớn lao tạo thành vạn vật.
Phiên âm: Câu đối hai cột quân
NƯỚC CHÚA TRỊ ĐẾN
1. Việt giáo chi thiên cửu bách dư niên
Nam, Bắc, Đông , Tây, vô tư bất phục
2. Đắc môn giả nhất bách thập, tam triệu,
Á, Âu, Phi, Mỹ hữu cực hàm qui
Dịch nghĩa:
1. Truyền giáo đã hơn một ngàn chín trăm năm
Nam, Bắc, Đông, Tây kẻ vô lo vẫn không phục.
2. Nhập giáo được một trăm mười ba triệu,
Á, Âu, Phi, Mỹ những người biết cứu cánh của mình đều theo.
CÂU ĐỐI Ở HÀNG CỘT GIAN THỨ HAI
Câu đối ở hai cột cái
NƯỚC CHÚA TRỊ ĐẾN
Phiên âm:
1. Nẫm tải xứ trần hoàn, nhân chi chí, nghĩa chi tận, như nhật nguyệt chi hiếu lâm, hạo hạo hồ bất khả thượng dĩ.
2. Tam niên thi áo pháp, tử sử sinh, tật sử liêu, diệu càn khôn chi Tạo Hoá đạng đạng hồ vô năng danh yên.
Dịch nghĩa:
1. Ba mươi năm Chúa sống cõi trần hoàn, rất nhân từ, rất nghĩa hiệp. Như nhật nguyệt sáng soi vằng vặc, vẻ cao đẹp nào có chi hơn?
2. Ba năm thi phép nhiệm, kẻ chết cho sống lại, kẻ bệnh nặng được lành ngay, Ngài là Đấng Tạo Hoá càng khôn, lồng lộng cao vời, làm sao mà gọi tên Ngài được.
Phiên âm: Câu đối ở cột quân
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO
1. Tri hữu Chủ bất tri thân. Nhất phiến đan tâm, trung nghĩa bỉnh bưu thiên nhật.
2. Khả đoạt soái yên khả đoạt chí. Thiên thu, kình tiết, khí thế áp đảo hoàng vương.
Dịch nghĩa:
1. Biết có Chúa nào biết đến mình
Một tấm lòng son niềm Trung nghĩa,
Sáng ngời như mặt nhật.
2. Đoạt được thân đâu doạt được chí
Nghìn thu dạ thép, khí thế ( của các Ngài)
Áp đảo cả hoàng vương.
CÂU ĐỐI Ở HÀNG CỘT GIAN THỨ BA
Câu đối ở hai cột cái
ĐỨC BÀ
Phiên âm:
1. Kỳ đạo tôn kỳ đức thịnh, phương danh viễn bá, tập quần Thánh chi đại, miệt dĩ gia yên.
2. Như băng thanh, như ngọc khiết, nguyên nhiễm bất ô, tự sinhdaan dĩ lai, vị chi hữu dã.
Dịch nghĩa:
1. Lòng đạo cao, phúc đức đầy,
Danh thơm bay khắp đó đây,
Cả Triều Thần Thánh lớn lao, ai tầy.
2. Như giá trong, như ngọc sạch,
Tội nguyên chẳng nhuốm, chẳng lây,
Từ sinh nhân loại đến nay,
Chưa hề có được một ai như Bà.
Câu đối ở hai cột quân:
Phiên âm:
ĐỨC BÀ ( A )
1. Tác tạo vật chi tôn mẫu, vi chí khiết chi Trinh thân nguyên chi ư thai vô tội, Bỉnh chi ư tính toàn nhân, tần thi quang hề cái thế.
ĐỨC BÀ ( B )
2. Đức ân thâm hề cứu nhân, nghĩa khính thuỳ, nhi quần pháp thiên môi khải nhi chúng trăn, vị việt chư thần ích thượng, đức siêu thứ loại đặc thuần.
Phiên dịch:
ĐỨC MẸ ( A )
1. Đức Bà là Mẹ Chúa Trời
Xác hồn vẹn sạch trọn đời đồng trinh
Đầu thai chẳng vướng tội tình
Gồm no nhân đức tuyệt vời thế gian.
ĐỨC MẸ ( B )
2. Ân đức sâu đầy Mẹ cứu đời
Gương lành Mẹ để cho người noi theo
Cửa Trời Mẹ mở, chúng theo
Toà Mẹ cao siêu trên Thần Thánh
Đức Mẹ trội vượt sáng trong ngần.
CÂU ĐỐI GIAN THỨ TƯ
Câu đối ở hai cột cái
CHÚA KITO TOÀN THẮNG
Phiên âm:
1. Cư cao nhi thính ti, thiện giả duy phúc, ác giả duy hình, hằng cổ vô vi kỳ phạm.
2. Xả thân dĩ Cứu Thế, nhục vi chi thực, huyết vi chi ẩm, triệu tính hàm lại hữu sinh.
Dịch nghĩa:
1. Chúa ngự chốn cao xanh nhưng nghe thấu dưới thấp, làm lành được phúc, làm ác phải phạt, muôn đời nào sót ai đâu.
( Thánh vịnh 1137 câu 6 )
2. Chúa bỏ mình để cứu đời, lấy thịt mình làm của ăn, lấy máu mình làm của uống, để cho hàng triệu người có sự sống của Chúa.
Câu đối ở hai cột quân
CHÚA KITO TOÀN THẮNG
Muốn nên trọn lành ( chỉ ư chí thiện )
Phiên âm:
1. Đạo chi nguyên bản ư thiên, thập giới sum nghiêm, suất thộ thi di (1) thị huấn.
2. Đức chi tu đạt hồ kỷ, nhất tâm kính cẩn, hoàn sinh nại Thánh, nại Thần.
DỊch nghĩa:
1. Đạo ta vốn góc từ Trời
Mười răn thích hợp lòng người lắm thay,
Chúa in tính giáo trong người (1)
Còn thêm luật đạo giúp người noi theo,
2. Đức tu thị tại lòng ta,
Một lòng kính cẩn để mà tu thân,
Đời sau là Thánh là Thần.
Chú thích: (1) chữ dị là phép thường
Tức là tính giáo lương tâm
CÂU ĐỐI GIAN THỨ NĂM
Câu đối ở hai cột cái
THÁNH GIUSE
Phiên âm:
1. Lịch niên hải quốc khứ hoàn phù Thánh Tử, dực Nữ Vương, cử thế hàn suy minh triết.
2. Chung cổ Thiên Cung tả hữu tôn Thái sư hiệu Thượng Phụ, chúng Thần công lẫm uy quyền.
Dịch nghĩa:
1. Bao năm xuất ngoại lại hồi hương,
Giữ gìn Thánh Tử, che chở Nữ Vương,
Khắp thế đều khen minh triết.
2. Muôn đời Thiên cung gần gũi,
Được tôn Thái Sư, được gọi Thương phụ
Thần Thánh ngưỡng mộ uy quyền.
Tập câu đối số 1 ở hai cột quân
CHÚA KITO TOÀN THẮNG
Phiên âm:
1. Công thẩm phán, ngữ đại châu chi
Hoàng vương đế bá, tận thuộc giám hành.
2. Chửng tế trầm luân, thiên vạn cổ chi
Thần Thánh tổ tông tư kỳ bạt trạc.
Dịch nghĩa:
1. Đến ngày thẩm phán công khai,
Hoàng vương đế bá phải ra hầu toà,
Năm châu nhân loại ai mà chốn đâu.
2. Ra tay cứu vớt kẻ trầm luân,
Các Thánh Tổ Tông ở (chốn) lâm bô,
Nghìn năm chờ đợi đến khi mô,
Phục Sinh Chúa rước, hoan hô lên Trời.
BỆNH VIỆN UNG BƯỚU ĐÀ NẴNG 11/7/2017.
LM ANTON TRƯỜNG THĂNG.