Tiền Giang
Tiền Giang | ||||
---|---|---|---|---|
Tỉnh | ||||
Thành phố Mỹ Tho |
||||
Địa lý | ||||
Tọa độ: 10°25′13″B 106°17′49″Đ / 10,420287°B 106,296844°ĐTọa độ: 10°25′13″B 106°17′49″Đ / 10,420287°B 106,296844°Đ | ||||
Diện tích | 2508,3 km²[1] | |||
Dân số (2011) | ||||
Tổng cộng | 1.682,600 người[1] | |||
Mật độ | 671 người/km²[1] | |||
Dân tộc | Việt | |||
|
||||
Hành chính | ||||
Quốc gia | Việt Nam | |||
Vùng | Đồng bằng sông Cửu Long | |||
Tỉnh lỵ | Thành phố Mỹ Tho | |||
Chủ tịch HĐND | Nguyễn Văn Danh | |||
Bí thư Tỉnh ủy | Trần Thế Ngọc | |||
Phân chia hành chính | 1 thành phố, 2 thị xã, 8 huyện | |||
Mã hành chính | VN-46 | |||
Mã bưu chính | 86xxxx | |||
Mã điện thoại | 73 | |||
Biển số xe | 63 | |||
Website | http://www.tiengiang.gov.vn/ |
Tiền Giang là một tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam, với phần lớn diện tích của tỉnh thuộc địa bàn tỉnh Mỹ Tho trước đó. Tuy nhiên, cũng có thời kỳ toàn bộ diện tích tỉnh Tiền Giang ngày nay đều thuộc tỉnh Mỹ Tho, bao gồm cả vùng Gò Công. Tiền Giang là tỉnh vừa thuộc Vùng đồng bằng sông Cửu Long, vừa nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nằm cách thành phố Hồ Chí Minh 70 km về hướng Nam và cách thành phố Cần Thơ 90 km về hướng Bắc[2].
Tiền Giang có đường bờ biển dài 32 km, với địa hình tương đối bằng phẳng, đất phù sa trung tính, ít chua dọc sông Tiền, chiếm khoảng 53% diện tích toàn tỉnh, thích hợp cho nhiều loại giống cây trồng và vật nuôi. Mạng lưới viễn thông Tiền Giang được hiện đại hóa và triển khai đồng loạt trong toàn tỉnh, đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt trong nước và quốc tế. Ngoài ra Tiền Giang cũng là tỉnh có nhiều tiềm năng về du lịch[2].
Mục lục
Vị trí địa lý[sửa | sửa mã nguồn]
Tiền Giang nằm trong tọa độ 105°50’–106°45’ đông và bắc. Phía bắc và đông bắc giáp tỉnh Long An, phía tây giáp tỉnh Đồng Tháp, phía nam giáp tỉnh Bến Tre và tỉnh Vĩnh Long, phía đông bắc giáp TP.Hồ Chí Minh, phía đông nam giáp Biển Đông. Được chính phủ quy hoạch là một trong 8 tỉnh kinh tế trọng điểm phía Nam.
Tiền Giang nằm trải dọc trên bờ Bắc sông Tiền (một nhánh của sông Mê Kông) với chiều dài 120 km. Nhờ vị trí hết sức thuận lợi nên Tiền Giang đã trở thành trung tâm văn hóa chính trị của cả Đồng bằng sông Cửu Long[3], là địa bàn trung chuyển hết sức quan trọng gắn cả miền Tây Nam Bộ. Vị trí như vậy giúp Tiền Giang sớm trở thành một tỉnh có nền kinh tế phát hàng đầu trong khu vực miền Tây Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía nam[4].
Điều kiện tự nhiên[sửa | sửa mã nguồn]
Tỉnh Tiền Giang có địa hình bằng phẳng, với độ dốc nhỏ hơn 1% và cao trình biến thiên từ 0 mét đến 1,6 mét so với mặt nước biển, phổ biến từ 0,8 mét đến 1,1 mét[5]. Nhìn chung, toàn vùng không có hướng dốc rõ ràng, tuy nhiên có những khu vực có tiểu địa hình thấp trũng hay gò cao hơn so với địa hình chung. Trên địa bàn còn có rất nhiều giồng cát biển hình cánh cung có cao trình phổ biến từ 0,9 - 1,1 mét nổi hẳn lên trên các đồng bằng chung quanh[5].
Đất đai của tỉnh phần lớn là nhóm đất phù sa trung tính, ít chua dọc sông Tiền chiếm khoảng 53% diện tích toàn tỉnh[6], thuận lợi nguồn nước ngọt, từ lâu đã được đưa vào khai thác sử dụng, hình thành vùng lúa năng suất cao và vườn cây ăn trái chuyên canh của tỉnh; còn lại 19,4% là nhóm đất phèn và 14,6% là nhóm đất phù sa nhiễm mặn[6]...
Tiền Giang có khu vực giáp biển Đông thuộc huyện Gò Công Đông với bờ biển dài 32 km nằm kẹp giữa các cửa sông lớn là Xoài Rạp và cửa Tiểu, cửa Đại thuộc hệ thống sông Tiền. Vị trí này rất thuận lợi cho nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản. Thủy sản nước lợ gồm con giống và con non sinh sản và di chuyển vào sâu trong bờ, trữ lượng hàng năm ước tính về tôm, cua, cá, sò, nghêu... tại các vùng cửa sông là 156.000 tấn. Hải sản, tiềm năng hải sản khá dồi dào với trữ lượng hàng năm về sinh vật nổi lên đến 12.000 triệu tấn thực vật phiêu sinh, 5,96 triệu tấn động vật phiêu sinh, 4,7 triệu tấn sinh vật đáy và hơn 1 triệu tấn cá[7].
Khí hậu Tiền Giang mang tính chất nội chí tuyến - cận xích đạo và khí hậu nhiệt đới gió mùa nên nhiệt độ bình quân cao và nóng quanh năm. Nhiệt độ bình quân trong năm là 27oC - 27,9oC. Với 2 mùa rõ rệch là mùa mưa và mùa khô. Mùa khô từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau lượng mưa trung bình 1.210 - 1.424 mm/năm và phân bố ít dần từ bắc xuống nam, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11[8].
Tiền Giang là tỉnh có nhiều trữ lượng về khoáng sản, các khoáng sản chủ yếu là Than bùn, sét, trữ lượng cát trên sông, và trữ lượng Nước dưới đất...Trong đó, Các mỏ than bùn bị phủ một lớp sét, mùn thực vật dày 0-0,7 mét, trung bình là 0,3 mét[9]. Mỏ sét Tân Lập có nguồn gốc trầm tích hổn hợp sông biển, tuổi Holocen, có lớp phủ dày 0,2 - 3 mét, phân bố trên diện tích 2 – 3 km2 với chiều dày 15 - 20m. Trữ lượng tương đương 6 triệu m3. Các mỏ cát được xác định, phân lớp tập trung tại địa bàn các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành với 9 thân cát có trữ lượng lớn với chiều dài 2 – 17 km, rộng 300 - 800m, dày 2,5-6,9 mét, có chất lượng đáp ứng nhu cầu vật liệu san lấp. Nước dưới đất trên phạm vi tỉnh có 3 tầng chứa nước có triển vọng, có độ giàu nước từ lớn đến trung bình, có chất lượng tốt, đủ điều kiện khai thác với qui mô lớn và vừa gồm các phân vị Pliocen trên, Pliocen dưới và Miocen[9].
Tiền Giang có mạng lưới sông, rạch chằng chịt, bờ biển dài thuận lợi cho việc giao lưu trao đổi hàng hoá với các khu vực lân cận đồng thời là môi trường cho việc nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản. Trong đó, Sông Tiền là nguồn cung cấp nước ngọt chính, chảy 115 km qua lãnh thổ Tiền Giang[10]. Sông Vàm Cỏ Tây là một sông không có nguồn, lượng dòng chảy trên sông chủ yếu là từ sông Tiền chuyển qua, là nơi nhận nước tiêu lũ từ Đồng Tháp Mười thoát ra và là 1 tuyến xâm nhập mặn chính. Hầu hết sông, rạch trên địa bàn tỉnh chịu ảnh hưởng chế độ bàn nhật triều không đều. Đặc biệt vùng cửa sông có hoạt động thủy triều rất mạnh, biên độ triều tại các cửa sông từ 3,5 - 3,6m, tốc độ truyền triều 30 km/h, tốc độ độ chảy ngược trung bình 0,8 - 0,9 m/s, lớn nhất lên đến 1,2 m/s và tốc độ chảy xuôi đến 1,5 - 1,8 m/s[10].
Hành chính[sửa | sửa mã nguồn]
Tiền Giang có 11 đơn vị hành chính gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện[11][12].
Ðơn vị hành chính cấp Huyện | Thành phố Mỹ Tho |
Thị xã Gò Công |
Thị xã Cai Lậy |
Huyện Cái Bè |
Huyện Gò Công Đông |
Huyện Gò Công Tây |
Huyện Chợ Gạo |
Huyện Châu Thành |
Huyện Tân Phước |
Huyện Cai Lậy |
Huyện Tân Phú Đông |
||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Diện tích (km²) | 79.8 | 102 | 140,2 | 416.1 | 267.7 | 180.2 | 235 | 229.9 | 333 | 296 | 202 | ||
Dân số (người) | 215.541 | 97.709 | 123.775 | 276.887 | 143.418 | 134.768 | 178.000 | 234.423 | 50.000 | 186.583 | 42.926 | ||
Mật độ dân số (người/km²) | 2701 | 958 | 883 | 666 | 536 | 748 | 757 | 1020 | 150 | 630 | 212 | ||
Số đơn vị hành chính | 11 phường và 6 xã | 5 phường và 7 xã | 6 phường và 10 xã | 24 xã và 1 thị trấn | 2 thị trấn và 11 xã | 1 thị trấn và 12 xã | 1 thị trấn và 18 xã | 1 thị trấn và 22 xã | 1 thị trấn và 12 xã | 16 xã | 6 xã | ||
Năm thành lập | 1967[13] | 1987 | 2013 | 1975 | 1979 | 1979 | 1975 | 1975 | 1994[14] | 1975 | 2008[15] | ||
Nguồn: Website tỉnh Tiền Giang |
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Tỉnh Định Tường thời nhà Nguyễn độc lập[sửa | sửa mã nguồn]
Trước thế kỷ XVII, đất Tiền Giang thuộc Chân Lạp.Vào đầu thế kỷ XVII, Jayajettha II lên ngôi ở Chân Lạp, để tạo ra một thế lực và liên minh mới đối trọng với nước Xiêm, ông tìm đến chúa Nguyễn qua cuộc hôn nhân với công chúa Ngọc Vạn. Mối quan hệ giữa hai nước ngày càng gắn bó. Khi Batom Reachea trở thành vua Chân Lạp (nhờ sự hỗ trợ của chúa Nguyễn), người Việt được phép đến định cư ở các vùng đất thuộc lãnh thổ nước này[16].
Từ thế kỷ XVII, vùng Tiền Giang được người Việt - từ miền Trung và miền Bắc, trong đó phần lớn là từ vùng Ngũ Quảng - đến khai hoang và định cư. Năm Nhâm Tý (1772), chúa Nguyễn Phước Thuần quyết định thành lập tại Mỹ Tho một đơn vị hành chánh mang tính quân quản là đạo Trường Đồn. Đứng đầu đạo Trường Đồn có một quan võ cấp Cai cơ (hoặc Cai đội), một quan văn cấp Thư ký và lực lượng tinh binh, thuộc binh. Lỵ sở đạo Trường Đồn đặt tại giồng Kiến Định (nay là khu vực thị trấn Tân Hiệp, huyện Châu Thành).
Năm Kỷ Hợi (1779), Nguyễn Phúc Ánh làm Nhiếp Quốc chính, cắt bớt địa giới các dinh Phiên Trấn, Trấn Biên và Long Hồ, kết hợp với đạo Trường Đồn để lập dinh Trường Đồn. Đặt các chức Lưu thủ, Ký lục, Cai bạ (toàn các quan văn) cai trị. Lỵ sở dinh Trường Đồn cũng đặt tại giồng Kiến Định như cũ. Dinh Trường Đồn được thành lập trên cơ sở là một “đạo” nên không có “phủ” mà chỉ có một “huyện”, đó là huyện Kiến Khương, gồm các thuộc Kiến Hưng, Kiến Hòa và Kiến Đăng.
Tháng giêng năm Canh Tý (1780), Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi chúa. Năm sau, Nguyễn Phúc Ánh đổi tên dinh Trường Đồn thành dinh Trấn Định, dời lỵ sở về thôn Mỹ Chánh (Mỹ Tho). Từ đó, Mỹ Tho trở thành trung tâm chính trị, hành chính, quân sự, văn hoá và kinh tế của một vùng. Đời Gia Long (1802), đơn vị dinh được đổi thành trấn. Lúc bấy giờ ở Nam kỳ có 5 trấn: Biên Hoà, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Long và Hà Tiên; lại đặt thêm thành Gia Định thống lĩnh 5 trấn này. Đất Tiền Giang bấy giờ thuộc trấn Định Tường. Trấn Định Tường có phủ Kiến An gồm ba huyện Kiến Hưng, Kiến Hoà và Kiến Đăng.
Năm Đinh Mão (1831), Minh Mạng đổi đơn vị “trấn” thành đơn vị “tỉnh” và bắt đầu xây dựng chế độ phong kiến theo mô hình trung ương tập quyền, xóa bỏ cấp “thành”, đặt ba tỉnh kiêm nhiếp, ba tỉnh phân hạt: tỉnh Gia Định kiêm nhiếp tỉnh Biên Hoà (phân hạt), tỉnh Vĩnh Long kiêm nhiếp tỉnh Định Tường (phân hạt), tỉnh An Giang kiêm nhiếp tỉnh Hà Tiên (phân hạt). Tỉnh Định Tường (chữ Hán: 定祥(省)) được thành lập năm Minh Mạng thứ 13 (1832) và là một trong 6 tỉnh của Nam Kỳ (Nam Kỳ lục tỉnh).
Thời Pháp thuộc (1862-1945), theo Hiệp ước Nhâm Tuất năm 1862, Định Tường cùng với Biên Hòa và Gia Định bị cắt nhượng cho Pháp. Năm 1876, tỉnh Định Tường bị Pháp giải thể và biến thành 2 tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement) là Mỹ Tho và Gò Công, thuộc khu vực hành chính (circonscription) Mỹ Tho. Sau này 2 hạt Mỹ Tho và Gò Công trở thành 2 tỉnh Mỹ Tho và Gò Công. Nhưng theo chú thích trong Đại Nam nhất thống chí: thời Pháp thuộc, tỉnh Định Tường bị chia thành 3 tỉnh: Mỹ Tho (đất huyện Kiến Hưng cũ), tỉnh Gò Công (đất huyện Kiến Hòa cũ), tỉnh Sa Đéc (đất huyện Kiến Đăng cũ).
Tỉnh Mỹ Tho và tỉnh Gò Công thời Pháp thuộc[sửa | sửa mã nguồn]
Thời Pháp thuộc, Pháp bỏ tỉnh và phủ huyện để thành lập các hạt tham biện, đất Tiền Giang thuộc hai tham biện Mỹ Tho và Gò Công. Năm 1899, lại đổi hạt tham biện thành tỉnh. Tỉnh Mỹ Tho có 3 trung tâm hành chính là Châu Thành, Cai Lậy và Chợ Gạo.
Sau này các trung tâm hành chính chuyển thành các quận thuộc tỉnh Mỹ Tho : Cai Lậy (thành lập năm 1904), Cái Bè (thành lập ngày 12 tháng 3 năm 1912), An Hóa (thành lập ngày 12 tháng 3 năm 1912), Bến Tranh (thành lập ngày 9 tháng 2 năm 1913), Châu Thành (thành lập ngày 22 tháng 3 năm 1912), Chợ Gạo (thành lập ngày 22 tháng 3 năm 1912). Ngày 1 tháng 1 năm 1928, giải thể quận Bến Tranh.
Còn ở tỉnh Gò Công, Pháp lại không thành lập các quận.
Từ ngày 9 tháng 2 năm 1913 đến ngày 9 tháng 2 năm 1924, tỉnh Mỹ Tho bao gồm cả tỉnh Gò Công nhập vào, thành quận Gò Công thuộc tỉnh Mỹ Tho. Từ năm 1924 đến năm 1956, Gò Công lại trở thành một tỉnh độc lập.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Năm 1948, chính quyền kháng chiến đưa quận An Hóa giao về tỉnh Bến Tre cho tiện quản lý. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975.
Năm 1951 Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ ra Quyết định sáp nhập 3 tỉnh: Mỹ Tho, Tân An, Gò Công thành tỉnh Mỹ Tho. Sau năm 1954 lại trả về 3 tỉnh như cũ.
Tỉnh Định Tường (tỉnh Mỹ Tho) và tỉnh Gò Công thời Việt Nam Cộng hòa[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 28 tháng 6 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa quyết định đổi tên quận An Hóa thành quận Bình Đại, đồng thời tách quận Bình Đại ra khỏi tỉnh Mỹ Tho để nhập về tỉnh Bến Tre như phía chính quyền Việt Minh đã làm vào năm 1948.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh số 143-NV để ”thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam”. Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Định Tường được thành lập trên phần đất tỉnh Mỹ Tho (trừ vùng nằm phía nam sông Tiền Giang là quận An Hóa thì đổi tên thành quận Bình Đại và nhập vào tỉnh Kiến Hòa) và tỉnh Gò Công cũ. Tỉnh lỵ tỉnh Định Tường đặt tại Mỹ Tho và vẫn giữ nguyên tên là "Mỹ Tho", về mặt hành chánh thuộc xã Điều Hòa, quận Châu Thành.
Ngày 20 tháng 12 năm 1963, chính quyền Việt Nam Cộng hòa quyết định tái lập tỉnh Gò Công, tách từ tỉnh Định Tường. Phần đất còn lại tương ứng với tỉnh Mỹ Tho trước năm 1956, tuy nhiên Việt Nam Cộng hòa vẫn giữ tên tỉnh Định Tường cho vùng đất này đến năm 1975.
Ngày 30 tháng 9 năm 1970, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cải biến xã Điều Hòa thuộc quận Châu Thành thành thị xã Mỹ Tho, là thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Việt Nam Cộng hòa, đồng thời kiêm tỉnh lỵ tỉnh Định Tường. Từ đó cho đến năm 1975, thị xã Mỹ Tho, tỉnh Định Tường và tỉnh Gò Công là ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau theo sự phân chia sắp xếp hành chính của Việt Nam Cộng hòa.
Tuy nhiên chính quyền Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Định Tường và vẫn giữ tên tỉnh cũ là tỉnh Mỹ Tho.
Năm 1957 chính quyền cách mạng nhập 2 tỉnh Gò Công và Mỹ Tho làm một đơn vị và gọi là tỉnh Mỹ Tho, bao gồm thị xã Mỹ Tho và các huyện: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Chợ Gạo, Gò Công. Trong giai đoạn 1964-1968, địa bàn tỉnh Gò Công của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do huyện Gò Công thuộc tỉnh Mỹ Tho của chính quyền cách mạng quản lý. Nhưng đến tháng 8 năm 1968, huyện Gò Công lại được chính quyền Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tách khỏi tỉnh Mỹ Tho để lập lại tỉnh Gò Công.
Năm 1967, Trung ương cục Miền Nam đã chuẩn y tách thị xã Mỹ Tho ra khỏi tỉnh Mỹ Tho, đồng thời nâng thị xã lên thành phố Mỹ Tho trực thuộc khu 8, là một đơn vị hành chính ngang bằng với tỉnh Mỹ Tho. Như vậy cho đến năm 1976, tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho là 3 đơn vị hành chính ngang bằng nhau.
Năm 1969, chính quyền Cách mạng chia huyện Châu Thành thành hai huyện là Châu Thành Bắc và Châu Thành Nam cùng thuộc tỉnh Mỹ Tho. Đến năm 1971, lại chia huyện Cai Lậy thành hai huyện là Cai Lậy Bắc và Cai Lậy Nam. Năm 1975, các huyện Châu Thành Bắc, Châu Thành Nam, Cai Lậy Bắc và Cai Lậy Nam đều bị giải thể, sáp nhập trở lại thành các huyện Châu Thành và huyện Cai Lậy như trước đó.
Tỉnh Tiền Giang thời Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Sau ngày 30 tháng 04 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ vẫn duy trì ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho cho đến đầu năm 1976.
Tháng 2 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho để thành lập tỉnh mới có tên là tỉnh Tiền Giang (trừ huyện Bình Đại nằm phía nam sông Tiền Giang đã nhập vào tỉnh Bến Tre từ trước). Tỉnh Tiền Giang gồm thành phố Mỹ Tho, thị xã Gò Công và 5 huyện: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Chợ Gạo, Gò Công. Tỉnh lỵ là thành phố Mỹ Tho, vốn được Trung ương công nhận là đô thị loại 3 trực thuộc tỉnh Tiền Giang vào năm 1976.
Ngày 26 tháng 03 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành quyết định số 77-CP về việc chuyển thị xã Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang thành thị trấn Gò Công thuộc huyện Gò Công cùng tỉnh.
Ngày 13 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành quyết định số 77-CP về việc chia huyện Gò Công thành 2 huyện: Gò Công Đông và Gò Công Tây.[17]
Ngày 16 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số 37-HĐBT về việc thành lập lại thị xã Gò Công trực thuộc tỉnh Tiền Giang trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của 2 huyện Gò Công Đông và Gò Công Tây.[18]
Trước năm 1994, tỉnh Tiền Giang có 8 đơn vị hành chánh trực thuộc là: thành phố Mỹ Tho, thị xã Gò Công, huyện Cái Bè, huyện Cai Lậy, huyện Châu Thành, huyện Chợ Gạo, huyện Gò Công Đông, huyện Gò Công Tây.
Ngày 11 tháng 7 năm 1994, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 68/CP[19], về việc thành lập huyện Tân Phước thuộc tỉnh Tiền Giang trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của các huyện Cai Lậy và Châu Thành. Huyện Tân Phước có diện tích là 32.991,44 ha, dân số là 42.031 người.
Năm 2005, thành phố Mỹ Tho được Trung ương công nhận và nâng lên là đô thị loại 2 trực thuộc tỉnh Tiền Giang.
Lịch sử phát triển dân số |
||||||||||||||||
Năm | Dân số | |||||||||||||||
1995 | 1.581.500 | |||||||||||||||
1996 | 1.587.400 | |||||||||||||||
1997 | 1.593.600 | |||||||||||||||
1998 | 1.600.000 | |||||||||||||||
1999 | 1.608.400 | |||||||||||||||
2000 | 1.613.500 | |||||||||||||||
2001 | 1.620.100 | |||||||||||||||
2002 | 1.626.700 | |||||||||||||||
2003 | 1.634.000 | |||||||||||||||
2004 | 1.642.700 | |||||||||||||||
2005 | 1.650.100 | |||||||||||||||
2006 | 1.655.300 | |||||||||||||||
2007 | 1.661.600 | |||||||||||||||
2008 | 1.668.000 | |||||||||||||||
2009 | 1.672.800 | |||||||||||||||
2010 | 1.678.000 | |||||||||||||||
2011 | 1.682.600 | |||||||||||||||
Nguồn:[20] |
Ngày 21 tháng 01 năm 2008, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 09/2008/NĐ-CP[21], về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Gò Công Đông và Gò Công Tây để mở rộng thị xã Gò Công và thành lập huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang. Theo đó, thành lập huyện Tân Phú Đông thuộc tỉnh Tiền Giang trên cơ sở điều chỉnh 8.632,88 ha diện tích tự nhiên và 33.296 nhân khẩu của huyện Gò Công Tây (bao gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của các xã: Tân Thới, Tân Phú, Phú Thạnh, Tân Thạnh); 11.575,43 ha diện tích tự nhiên và 9.630 nhân khẩu của huyện Gò Công Đông (bao gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Phú Đông và xã Phú Tân)[16].
Ngày 29 tháng 06 năm 2009, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 28/NQ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Châu Thành, huyện Chợ Gạo để mở rộng địa giới hành chính thành phố Mỹ Tho; điều chỉnh địa giới hành chính xã, thành lập xã thuộc thành phố Mỹ Tho, huyện Châu Thành, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.
Ngày 26 tháng 12 năm 2013, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 130/NQ-CP về việc thành lập thị xã Cai Lậy trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của huyện Cai Lậy.[22]
Tỉnh Tiền Giang có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố Mỹ Tho, thị xã Gò Công, thị xã Cai Lậy và các huyện: Cái Bè, Gò Công Đông, Gò Công Tây, Chợ Gạo, Châu Thành, Tân Phước, Cai Lậy và Tân Phú Đông.
Dân số[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến năm 2011, dân số toàn tỉnh Tiền Giang đạt gần 1.682.600 người, mật độ dân số đạt 671 người/km²[23] Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 265.400 người[24], dân số sống tại nông thôn đạt 1.417.200 người[25]. Dân số nam đạt 829.500 người[26], trong khi đó nữ đạt 853.100 người[27]. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 7,0 ‰[28]
Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]
Trong 6 tháng đầu năm 2012, Tổng sản phẩm trên địa bàn ước tính đạt 8.232 tỷ đồng, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm 2011. Tốc độ tăng trưởng kinh tế có chậm lại so với 2 năm trước liền kề[29].
So với 6 tháng đầu năm 2011, Khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng trưởng 5,6%, trong đó nông nghiệp tăng 6,2%. Khu vực công nghiệp - xây dựng tăng trưởng 13,1%, tăng cao hơn 6 tháng đầu năm 2011 là 0,9%, trong đó công nghiệp tăng 18,1%. Khu vực dịch vụ tăng trưởng 10,4%, tăng thấp hơn 6 tháng đầu năm 2011 là 0,8%. Cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch chậm, tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và tỷ trọng nông nghiệp giảm. Khu vực nông lâm thủy sản chiếm 47,2%, khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 26,3%, khu vực dịch vụ chiếm 26,5%[29].
Trong 6 tháng đầu năm 2012, tổng thu ngân sách đạt 4.126 tỷ đồng, tăng 9,6% so cùng kỳ. Tính đến ngày 11 tháng 6 năm 2012, tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn đạt 19.546 tỷ đồng, tăng 2.301 tỷ đồng so đầu năm và tăng 21,7% so cùng kỳ. Dư nợ cho vay là 16.039 tỷ đồng giảm 37 tỷ so đầu năm và tăng 6,1% so cùng kỳ, trong đó dư nợ ngắn hạn đạt 11.552 tỷ đồng, chiếm 72% trong tổng dư nợ cho vay. Nợ xấu 6 tháng qua có xu hướng tăng lên, tăng 421 tỷ đồng so đầu năm và chiếm 3,7% trong tổng dư nợ[29].
Uớc đạt trong 6 tháng đầu năm 2012, Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 6.208,8 tỷ đồng, đạt 34,8% kế hoạch, bằng 98,9% so cùng kỳ. Vốn khu vực Nhà nước 953,6 tỷ đồng, chiếm 15,2% trong tổng vốn đầu tư, khu vực ngoài Nhà nước 4.660,6 tỷ đồng, tăng 9,5%, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 594,6 tỷ đồng, bằng 60,1% so cùng kỳ. Vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện 742,9 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách trung ương 88,6 tỷ đồng, chiếm 11,9% tổng số, vốn ngân sách địa phương 731 tỷ đồng, chiếm 88,1%. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được 7 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký 152,6 triệu USD[29].
Sáu tháng đầu năm 2012, Tỉnh có 165 doanh nghiệp đăng ký thành lập với tổng vốn đăng ký là 393,9 tỷ đồng, giảm 27% về số doanh nghiệp và giảm 51,8% về lượng vốn đăng ký. Ngoài ra, còn có 90 doanh nghiệp đăng ký bổ sung vốn với tổng vốn bổ sung thêm là 1.495,2 tỷ đồng và 321 doanh nghiệp đăng ký bổ sung ngành nghề kinh doanh. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2011, trên địa bàn tỉnh có 4.112 doanh nghiệp, trong đó có 2.793 doanh nghiệp đang hoạt động, 207 doanh nghiệp đã đăng ký nhưng chưa hoạt động, 159 doanh nghiệp ngừng sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp chờ giải thể 121, doanh nghiệp không tìm thấy, không xác minh 166, doanh nghiệp thuộc đối tượng khác 666. Tổng số hợp tác xã hiện có trên địa bàn tỉnh là 104 hợp tác xã và 01 Liên hiệp hợp tác xã[29].
Trong sáu tháng đầu năm 2012, Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội thực hiện được 15.438 tỷ đồng, đạt 46,5% kế hoạch năm và tăng 16,7% so cùng kỳ. Xuất khẩu hàng hóa không được thuận lợi, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 360 triệu USD, đạt 41,9% kế hoạch. Hàng thủy sản xuất 60.476,8 tấn tăng 13,4%, về trị giá tương đương 159,8 triệu USD tăng 7,2% so cùng kỳ. Hàng rau quả xuất 3.345 tấn giảm 30,3%, về trị giá đạt 3,7 triệu USD chỉ bằng 64,6% so cùng kỳ. Xuất khẩu Gạo đạt được 89.592 tấn bằng 63,8% so cùng kỳ, về trị giá đạt 41,4 triệu USD giảm 35,7% so cùng kỳ (giảm 22,9 triệu USD). Hàng dệt may xuất được 5.341,8 ngàn sản phẩm giảm 8,5% so cùng kỳ, về trị giá tương đương 57 triệu USD tăng 10,7% so cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 125,3 triệu USD, đạt 36,9% kế hoạch và bằng 80,4% so cùng kỳ, gồm kinh tế nhà nước đạt 26,2 triệu USD, tăng 38%; kinh tế tư nhân đạt 40,2 triệu USD, bằng 58,8%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 59 triệu USD, bằng 86% so cùng kỳ. Doanh thu vận tải đạt 655,4 tỷ đồng, tăng 28,5% so cùng kỳ, trong đó vận tải hàng hóa đạt 394,3 tỷ đồng, tăng 32,2%, vận tải hành khách đạt 239,3 tỷ đồng, tăng 23,3%. Tổng khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 5.805 nghìn tấn, tăng 17,8% so cùng kỳ, khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 552.206 nghìn tấn, tăng 24,6% so cùng kỳ. Doanh thu Bưu chính viễn thông đạt 538,2 tỷ đồng tăng 17,7% so 6 tháng đầu năm 2011. Chỉ số giá tiêu dùng tăng 1,33% so với tháng 12 năm 2011, bình quân 1 tháng tăng 0,22%[29].
- Các khu công nghiệp trong tỉnh
-
- Khu công nghiệp Mỹ Tho (79,14 ha): TP Mỹ Tho
- Khu công nghiệp Tân Hương (197 ha): H.Châu Thành
- Khu công nghiệp Long Giang (600 ha): H.Tân Phứơc
- Khu công nghiệp Dầu khí Xoài Rạp (600 ha): H.Gò Công Đông
- Khu công nghiệp Bình Đông (1000 ha):TX Gò Công
- Dự án các khu công nghiệp tập trung giai đoạn 2010-2015 có quy mô lớn như: KCN Đông Nam Tân Phước, KCN Bình Xuân, KCN tập trung ở Bắc Gò Công, cụm công nghiệp Tam Hiệp (Châu Thành), Long Định, CCN Bình Phúở TT. Bình Phú Cai Lậy, CCN Hòa Khánh (Cái Bè), CCN Bắc Mỹ Thuận(Hòa Hưng -Cái Bè)... Và hơn 10 cụm công nghiêp có quy mô lớn như: CCN An Thạnh, CCN Tân Mỹ Chánh, CCN Bình Đức, CCN Bình Xuân,... phân bố rộng khắp tất cả thị thành trong tỉnh.
-
Giáo dục[sửa | sửa mã nguồn]
Hệ thống giáo dục của tỉnh Tiền Giang bao gồm đầy đủ các cấp học như mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. Đến 30 tháng 09 năm 2008, tỉnh Tiền Giang có 384 trường học ở các cấp phổ thông, đứng thứ 7 ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long[30]. Tiền Giang có các trường tiêu biểu như: Trường Đại học Tiền Giang, Trường Cao đẳng Y tế Tiền Giang, Trường Cao đẳng Nông nghiệp Nam Bộ, Trường Trung học Bưu điện, Trường Cao đẳng nghề, Trường Trung cấp Văn hoá nghệ thuật...
Y tế[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 2008, tỉnh Tiền Giang có 201 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 13 bệnh viện, 16 phòng khám đa khoa khu vực và 169 trạm y tế phường xã tổng số với 757 bác sĩ, 805 y sĩ, 907 y tá, 387 nữ hộ sinh, 60 dược sĩ cao cấp, 617 dược sĩ trung cấp và 96 dược tá[31].,
Đầu năm 2010, ngành y tế Tiền Giang có trên 4.000 y bác sĩ, toàn tỉnh có 159/169 trạm y tế có bác sĩ, 164 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia về y tế xã, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật y tế từ tỉnh đến cơ sở được đầu tư và ngày càng chuẩn hoá, ứng dụng kỹ thuật hiện đại giúp nâng cao chất lượng khám chữa bệnh[32].
Năm 2009, tỉnh có thêm 13 xã đã chuẩn quốc gia về y tế, nâng tổng số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế là 164/169 xã, đạt tỷ lệ 97,04%[33].
Giao thông[sửa | sửa mã nguồn]
Tình hình trật tự an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh còn nhiều phức tạp tập trung ở những nơi đông dân cư. Tính đến tháng 6 năm 2012, Giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh xảy ra 124 vụ tai nạn, so cùng kỳ giảm 16 vụ. Số người chết 131 người so cùng kỳ giảm 17 người. Số người bị thương 74 người, so cùng kỳ giảm 7 người. Vi phạm trật tự an toàn giao thông 76.413 vụ so cùng kỳ tăng 15.749 vụ. Đã xử lý tạm giữ phương tiện 10.340 vụ, tước giấy phép lái xe 3.737 vụ, phạt tiền 66.073 vụ với số tiền phạt 25.810 triệu đồng. Giao thông đường thủy xảy ra 3 vụ tai nạn, so cùng kỳ tăng 1 vụ. Thiệt hại tài sản 707 triệu đồng. Vi phạm giao thông đường thủy từ đầu năm đến nay 7.950 vụ so cùng kỳ giảm 1.341 vụ. Đã xử lý lập biên bản tạm giữ giấy tờ 1.427 vụ, phạt tiền 6.523 vụ với số tiền phạt 3.079 triệu đồng[29].
Biển số xe cơ giới trong tỉnh[sửa | sửa mã nguồn]
- Biểm kiểm soát xe môtô
- Huyện Cái Bè 63-B1 XXX.XX
- Huyện Cai Lậy 63-B2 XXX.XX
- Huyện Châu Thành 63-B3 XXX.XX
- Huyện Chợ Gạo 63-B4 XXX.XX
- Huyện Gò Công Tây 63-B5 XXX.XX
- Thị xã Gò Công 63-B6 XXX.XX
- Huyện Gò Công Đông 63-B7 XXX.XX
- Huyện Tân Phú Đông 63-B8 5XX.XX
- Huyện Tân Phước 63-B8 0XX.XX
- Thành phố Mỹ Tho 63-B9 XXX.XX
Văn hóa & Du lịch[sửa | sửa mã nguồn]
Tiền Giang là tỉnh có nhiều tiềm năng về du lịch. Hàng năm, lượng du khách đến hàng năm đều tăng. Trong năm 2009, lượng khách tham quan Tiền Giang vẫn đạt 866.400 lượt người. Thế mạnh của du lịch chủ yếu nhờ vào các di tích văn hóa lịch sử và sinh thái như di tích văn hóa Óc Eo, Gò Thành từ thế kỷ I đến thế kỷ VI sau công nguyên), di tích lịch sử Rạch Gầm - Xoài Mút, di tích Ấp Bắc, lũy Pháo Đài, và nhiều lăng mộ, đền chùa: lăng Trương Định, lăng Hoàng Gia, lăng Tứ Kiệt, chùa Vĩnh Tràng, chùa Bửu Lâm, chùa Sắc Tứ… các điểm du lịch sinh thái mới được tôn tạo như vườn cây ăn quả ở cù lao Thới Sơn, Ngũ Hiệp, Trại rắn Đồng Tâm, khu sinh thái Đồng Tháp Mười, biển Gò Công[2]...
Trong 6 tháng đầu năm 2012, Số khách tham quan du lịch đạt 519,7 ngàn lượt khách, tăng 5,2% so cùng kỳ, trong đó khách quốc tế là 271,7 ngàn lượt khách, đạt 50,7% kế hoạch và giảm 1,5% so cùng kỳ. Tổng doanh thu du lịch thực hiện được 1.475,4 tỷ đồng, tăng 18,3% so cùng kỳ, trong đó doanh thu du lịch lữ hành chiếm 1,7%[34].
Những nhân vật tiêu biểu[sửa | sửa mã nguồn]
Tiền Giang là vùng đất xuất thân của nhiều nhân vật nổi tiếng tại Việt Nam.
- Tả quân Lê Văn Duyệt (1764-1832)
- Sĩ phu yêu nước Nguyễn Hữu Huân (1830-1875)
- Sĩ phu yêu nước Âu Dương Lân (m. 1875)
- Nhà văn Hồ Biểu Chánh(1884–1958)
- Nhà văn Đoàn Giỏi (1925-1989)
- Giáo sư tiến sĩ Trần Văn Khê
- Võ sư Hồ Hoa Huệ
- Nghệ sĩ nhân dân Phùng Há
- Nghệ sĩ nhân dân Bảy Nam
Chú giải[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a b c Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2011 phân theo địa phương, Theo Tổng Cục thống Kê.
- ^ a b c Giới thiệu về Tiền Giang, Theo trang thông tin điện tử Tỉnh Tiền Giang.
- ^ Tiền Giang là một tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam , Theo trang SaigonToserco.
- ^ Tiền Giang có địa hình tương đối bằng phẳng., Theo trang Thoáng Sài Gòn.
- ^ a b Địa hình tại tỉnh Tiền Giang, Cổng thông tin điện tử Tiền Giang.
- ^ a b Đất đai của tỉnh Tiền Giang, Cổng thông tin điện tử Tiền Giang.
- ^ Tiền Giang có khu vực giáp biển Đông thuộc huyện Gò Công Đông, Cổng thông tin điện tử Tiền Giang.
- ^ Thời tiết - Khí hậu tại Tiền Giang, Cổng thông tin điện tử Tiền Giang.
- ^ a b Tài nguyên khoáng sản tại Tiền Giang, Cổng thông tin điện tử Tiền Giang.
- ^ a b Sông ngòi tại Tiền Giang, Cổng thông tin điện tử Tiền Giang.
- ^ “Nghị quyết số 130/NQ-CP của Chính phủ”. Báo điện tử Chính phủ. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2013.
- ^ http://tiengiang.gov.vn/xemtin.asp?cap=2&id=5626&IDCHA=960
- ^ Đảng bộ Thành phố Mỹ Tho 45 năm chiến đấu và trưởng thành, Huỳnh Đức Minh – UVTV Tỉnh ủy – Bí thư Thành ủy Mỹ Tho.
- ^ Nghị định 68-CP năm 1994 về việc thành lập huyện Tân Phước, Chính phủ Việt Nam.
- ^ Nghị định 09/2008/NĐ-CP, Chính phủ Việt Ma,.
- ^ a b Lịch sử hình thành và phát triển của Tỉnh Tiền Giang, Theo website vietgle.
- ^ Quyết định 155-CP năm 1979 về việc chia huyện Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang thành huyện Gò Công Đông và huyện Gò Công Tây
- ^ Quyết định 37-HĐBT năm 1987 về việc thành lập thị xã Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang
- ^ Nghị định của chính phủ số 68-CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 về việc thành lập huyện Tân Phước thuộc tỉnh Tiền Giang, Theo Thư viện Pháp Luật.
- ^ Dân số trung bình phân theo địa phương qua các năm, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
- ^ NGHỊ ĐỊNH Về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Gò Công Đông và Gò Công Tây để mở rộng thị xã Gò Công và thành lập huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang, Theo website Chính Phủ.
- ^ Nghị quyết 130/NQ-CP thành lập thị xã Cai Lậy
- ^ Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2011 phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
- ^ Dân số thành thị trung bình phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
- ^ Dân số nông thôn trung bình phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
- ^ Dân số nam trung bình phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
- ^ Dân số nữ trung bình phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
- ^ Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
- ^ a b c d e f g Tình hình kinh tế xã hội tỉnh Tiền Giang 6 tháng đầu năm 2012, Website thông tin kinh tế xã hội tỉnh Tiền Giang.
- ^ Theo số liệu của Tổng cục Thống kê
- ^ Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê năm 2008
- ^ Theo thông tin từ Website Đài phát thanh và truyền hình Tiền Giang
- ^ Ngành Y tế Tiền Giang, Website thông tin kinh tế xã hội tỉnh Tiền Giang.
- ^ Du lich tại Tiền Giang, Website thông tin kinh tế xã hội tỉnh Tiền Giang.
|
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Tiền Giang |