Địa điểm tham quan ở Nghệ An (Phần 1)
1. Đền Cờn
Vị trí: Làng Phương Cần, xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, cách thành phố Vinh khoảng 75km về phía bắc, cách Hà Nội khoảng 220km về phía nam.
Đây là ngôi đền linh thiêng nhất trong 4 ngôi đền thiêng ở tỉnh Nghệ An: “Nhất Cờn, nhì Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng”.
Với thế cận biển, liền sông, gần đường, sát núi, phong cảnh ở Đền Cờn giống như một bức tranh thủy mặc mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho Nghệ An.
Di tích Đền Cờn gồm có hai đền: Đền Cờn Trong và Đền Cờn Ngoài.
Đền Cờn Trong nằm trên gò Diệc, hướng mặt ra dòng Mai Giang thơ mộng, thờ Tứ vị Thánh nương Nam Hải Đại càn quốc gia. Theo thần phả tại đền và một số tài liệu lịch sử như: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam nhất thống chí, Tứ vị Thánh nương Nam Hải Đại càn quốc gia là bà Thái hậu Dương Nguyệt Quả, 2 công chúa Triệu Nguyệt Khiêu, Triệu Nguyệt Hương (con vua Tống Độ Tông) và bà nhũ mẫu (Trung Quốc). Năm Thiệu Bảo thứ nhất (1279), do quân Tống thất bại trong trận chiến Tống – Nguyên, Vua Tống Đế Bính cùng quan quân nhảy xuống biển tự vẫn. Thái hậu và 2 công chúa vì thương tiếc nhà Vua cũng nhảy xuống biển tự vẫn theo, thân xác trôi dạt đến cửa Cờn (Nghệ An). Người dân nơi đây đã vớt lên chôn cất và thờ tại Đền Cờn.
Theo sách địa lý – phong thổ, ngôi Đền này có thế đứng giống đầu chim phượng hoàng với hai cánh phượng là hai đồi cát nhô cao giăng dài nằm ngay phía sau đền, hai mắt phượng là giếng Đò, giếng Đình nằm trên hai ngọn đồi này.
Đền Cờn Trong được xây dựng vào thời Trần, phát triển quy mô lớn ở thời Lê, trùng tu nhiều ở thời Nguyễn, bởi vậy, di tích mang đậm phong cách văn hóa cuối Lê đầu Nguyễn. Trải qua thời gian, ngôi Đền hiện chỉ còn tòa Nghi môn, Chính điện, Trung điện, Hạ điện và tòa ca vũ.
Qua cổng Đền vào sân, bước lên 10 bậc đá sẽ tới tòa Nghi môn. Đây là một tòa nhà hình chữ công bề thế, gồm có hai tầng, 8 mái, liền tiếp sau nó là Chính điện, Trung điện và Hạ điện.
Toà ca vũ với ba gian chính và hai gian phụ cũng to rộng, bề thế, có đề tài trang trí đa dạng.
Quy mô Đền Cờn Trong tuy không lớn, nhưng hội tụ nhiều nét văn hoá đặc sắc, từ vật liệu xây dựng Đền cho đến các đường nét chạm khắc, tạo hình… Tất cả cho thấy trình độ tay nghề điêu luyện của người xưa. Tại đây còn lưu giữ 142 hiện vật quý giá. Ngoài các loại bằng sắc, câu đối, đại tự, đồ tế khí: kiệu, tàn lọng, đồ ngà, đồng…, còn có bia đá 2 mặt cao 1,6m, rộng 1,2m dựng năm 1665, chuông đồng đúc năm Cảnh Hưng (1752) nặng 300 kg, 28 pho tượng đá và nhiều tượng gỗ thời Lê.
Đền Cờn Ngoài nằm cách Đền Cờn Trong khoảng 1km, tọa lạc trên dãy núi Hùng Vương, sát cửa biển Lạch Cờn. Đền gồm 3 tòa bố cục theo kiểu chữ Tam, thờ vua quan nhà Tống (Trung Quốc): Tống Đế Bính, Trương Thế Kiệt và Lục Tú Phu. Các vị thần này trước được phối thờ ở Đền Cờn trong, song do quan niệm nho giáo nam nữ bất đồng cung nên đến thời Lê được xây dựng đền thờ riêng.
Đền Cờn xưa nay nổi tiếng linh ứng. Năm Hưng Long thứ 19 (1311), Vua Trần Anh Tông thân chinh đi đánh quân Chiêm Thành, khi đến cửa Cờn, nhà Vua cùng quân lính dừng lại nghỉ ngơi. Ban đêm nhà Vua mộng thấy nữ thần hiện lên và xin giúp nhà vua lập công đánh giặc. Sáng hôm sau, nhà Vua cho vời các bô lão trong vùng đến hỏi mới rõ sự tích. Nhà Vua liền vào đền kính tế. Khi ra quân, Vua kéo quân đến thẳng thành Chà Bàn đánh thắng lớn. Khi trở về kinh đô, nhà Vua làm lễ và phong sắc “Đại Càn quốc gia Nam Hải Tứ vị Thánh Nương”, ban vàng bạc và cho xây dựng mở rộng Đền.
Năm Hồng Đức thứ nhất (1470), Vua Lê Thánh Tông trên đường mang quân đánh dẹp phương nam cũng dừng chân tại cửa Cờn và vào Đền làm lễ cầu đào. Do Tứ vị Thánh Nương hiển linh phù trợ, nhà Vua đã đánh thắng giặc. Sau khi trở về, Vua ban cấp tiền bạc xây dựng đền và phong sắc “Đại Càn quốc gia Nam Hải Tứ vị Thánh hương thượng thượng đẳng thần Ngọc bệ hạ”, ghi nhận công đức Thánh Mẫu giúp nước, giúp dân. Sang thế kỷ 18, vua Quang Trung đã ban sắc phong với mỹ tự “Hàm hoằng quảng đại” (tức là công lao rộng khắp, to lớn) và “Hàm chương tiết liệt”(nghĩa là nêu gương tiết liệt cho muôn đời).
Từ đó về sau, người dân vùng biển mỗi khi ra khơi, nếu thành tâm vào Đền cầu khấn thì đều được bình an.
Đền Cờn – công trình kiến trúc cổ với nhiều mảng chạm khắc quanh đề tài “Tứ linh, tứ quý”, đã trở thành trung tâm tín ngưỡng văn hóa nổi tiếng không chỉ của người dân vùng biển Quỳnh Lưu (Nghệ An) mà còn là của người dân trên mọi miền tổ quốc.
Lễ hội đền Cờn diễn ra từ ngày 19 – 21/1 âm lịch hàng năm là dịp để người dân trong vùng cũng như du khách thập phương đến Đền chiêm bái và tưởng nhớ công ơn của Tứ vị Thánh Nương. Với các hoạt động như: chạy ói, diễn trận thủy chiến giả gắn với truyền thuyết dựng đền, đu tiên, đấu vật, đánh cờ người, đua thuyền rồng, hát tuồng, chèo, chầu văn…, chắc chắn sẽ đem lại nhiều điều thú vị cho du khách.
Ngày 29/1/1993, Bộ Văn hoá – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã có quyết định số 68/QĐ-BVHTT công nhận Đền Cờn là di tích lịch sử – văn hoá cấp quốc gia.
2. Đền chín gian
Vị trí: Đền chín gian tọa lạc trên đỉnh Pú Pỏm (cao gần 200m), thuộc địa phận Mường Tôn xưa, nay là 2 xã Châu Kim và Mường Noọc, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An.
Đến đây, du khách sẽ hiểu thêm về tín ngưỡng và lối kiến trúc nhà sàn truyền thống của đồng bào dân tộc Thái vùng Tây Bắc – Nghệ An.
Đền chín gian được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 14, theo lối kiến trúc nhà sàn truyền thống của đồng bào dân tộc Thái vùng Tây Bắc xứ Nghệ.
Ban đầu, ngôi đền được thiết kế theo kiểu nhà sàn cột gỗ lợp tranh và có 9 gian – tượng trưng cho 9 mường trong vùng. Tuy nhiên, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, ngôi đền đã bị xuống cấp nhiều.
Cho đến nay, ngôi đền đã được trùng tu hai lần: Lần 1 vào năm Đinh Mão (1927). Lần 2 vào năm 2004. Hiện ngôi đền đã được trùng tu theo lối kiến trúc cũ nhưng nguyên vật liệu xây dựng ngôi đền bây giờ không phải bằng gỗ mà bằng xi măng, cốt thép.
Theo tín ngưỡng dân tộc Thái, gian chính giữa của ngôi đền là thờ cúng Then Pà (Ngọc Hoàng), Náng Xỉ Đà (con gái của Ngọc hoàng) và Tạo Ló Ỳ – người đầu tiên tạo lập ra Mường Tôn xưa. Tám gian còn lại thờ 8 vị có công khai mở ra 8 mường trước tiên.
Từ năm 2006, người dân trong vùng cùng nhau tổ chức Lễ hội Đền chín gian. Tại Lễ hội Đền chín gian 2009 (diễn ra từ ngày 9 – 11/3/2009), UBND 2 xã Châu Kim và Mường Noọc đã long trọng đón nhận bằng công nhận di tích lịch sử, văn hóa Đền chín gian là di tích cấp tỉnh.
3. Đền Cuông
Vị trí: Đền Cuông nằm ở núi Mộ Dạ, thuộc địa phận xã Diễn An, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, cách Tp. Vinh khoảng 30km về phía bắc.
Đây là ngôi đền thiêng, thờ Thục An Dương Vương – vua của nước Âu Lạc (250 – 208 trước Công nguyên).
Từ Tp. Vinh, theo quốc lộ 1A khoảng 30km về phía bắc sẽ tới Đền Cuông.
Tương truyền, sau khi được Thần Kim Quy giúp xây thành và làm nỏ thần, Thục An Dương Vương hoàn toàn mất cảnh giác và đã mắc mưu của Triệu Đà. Năm 208, sau khi chiếm được nỏ thần, Triệu Đà đã cho quân tấn công bất ngờ nước Âu Lạc, Thục An Dương Vương thất thế phải rút lui về phương nam, khi đến biển Cửa Hiền (ở phía bắc chân núi Mộ Dạ) đã được Thần Kim Quy đón về với Thủy Thần.
Để tưởng nhớ Thục An Dương Vương, sau khi ông mất, nhân dân vùng này đã lập miếu thờ ông ở Cửa Hiền. Dù đã có miếu thờ, nhưng mỗi khi màn đêm buông xuống, trên sườn núi Mộ Dạ xuất hiện đốm lửa lập loè, người dân ở đây nghĩ rằng đó chính là linh hồn của Thục An Dương Vương nên họ đã lập đền thờ ông tại đây và gọi là Đền Cuông.
Ngôi đền được gọi là Đền Cuông nhưng ngụ ý nói Đền Công, vì Công theo tiếng Nghệ An nghĩa là Cuông. Tương truyền, khu vực núi Mộ Dạ xưa có nhiều chim công sinh sống, thế Núi Mộ Dạ trông xa giống hình một con chim công (hoặc con hạc) khổng lồ đang múa, đầu chim chính là nơi Đền Cuông tọa lạc.
Cho đến nay, vẫn chưa có tài liệu lịch sử nào xác định chính xác thời điểm khởi dựng Đền Cuông. Tuy nhiên, dưới thời nhà Nguyễn, Đền đã được trùng tu nhiều lần, đặc biệt vào năm Giáp Tý (1864), vua Tự Đức ban sắc chỉ xây dựng lại Đền với quy mô như ngày nay.
Đền Cuông là một công trình kiến trúc đẹp, vững chắc, phù hợp với điều kiện thiên nhiên ở miền Trung, xung quanh có trồng nhiều cây xanh đan xen. Đền có kiến trúc theo kiểu chữ Tam, bao gồm tam quan, ba tòa Thượng, Trung và Hạ điện.
Tam quan đồ sộ, có 3 cửa vào: cửa giữa có ba tầng, hai cửa bên có hai tầng, các cửa này đều được thiết kế theo kiểu vòm cuốn.
Tòa Thượng điện – nơi đặt ban thờ Thục An Dương Vương và tòa Hạ điện đều có kiến trúc kiểu chồng diêm 4 mái, đầu đao cong vút. Riêng tòa Trung điện – nơi đặt ban thờ Cao Lỗ, tướng giúp vua Thục chế tác nỏ thần, được kiến trúc theo kiểu chồng diêm 8 mái. Các công trình đều đồ sộ, cột to, tường dày vững chắc nhưng không thô vì các chi tiết, hoa văn được đắp, chạm tinh tế, toát lên vẻ đẹp nhẹ nhàng, thanh thoát.
Đền Cuông còn có nhiều di vật quý: trống, chiêng, tượng thờ, đồ tế khí… Nơi đây còn lưu giữ nhiều tư liệu bằng chữ Hán trên các bức hoành phi, cột, trụ biểu nhắc nhở con cháu, muôn dân luôn nhớ ân đức vua Thục An Dương Vương.
Lễ hội đền Cuông diễn ra từ ngày 14 – 16/2 âm lịch hàng năm là dịp để người dân trong vùng cũng như du khách thập phương đến Đền chiêm bái và tưởng nhớ công ơn Thục An Dương Vương. Với các hoạt động như: tế thần, rước kiệu thần, hát ví, hát phường vải, hát tuồng, chèo, đốt pháo bông, thả đèn hoa…. chắc chắn sẽ đem lại nhiều điều thú vị cho du khách.
4. Đền Hồng Sơn
Vị trí: Đền Hồng Sơn toạ lạc trên mảnh đất đẹp, trên đường Hồng Sơn, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
Đền được xây dựng năm 1839, thờ Quan Vân Trường. Đền đã được trùng tu nhiều lần.
Hiện tại có 19 hạng mục kiến trúc khá hoàn hảo: tường rào; cổng hồ bán nguyệt; tam quan bắc môn; nhà bia; trụ biểu; sân ngự uyển; gác chuông; lầu trống; tháp miếu; tả vu; hữu vu; 2 cung hậu hiền và hạ hiền; hạ điện; sân giữa; trung và thượng điện. Trong đền còn lưu giữ 383 hiện vật quý như tượng, câu đối, chuông, bia đá…
Đền Hồng Sơn là một trong số công trình kiến trúc nghệ thuật và là chốn linh thiêng quý hiếm còn lại trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
5. Đền Quả Sơn
Vị trí: Đền Quả Sơn nằm tại chân núi Quả, bên bờ sông Lam, thuộc địa phận làng Miếu Đường, xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, cách thành phố Vinh hơn 70km về phía tây bắc.
Đây là ngôi đền thiêng thứ hai trong 4 ngôi đền thiêng ở tỉnh Nghệ An: “Nhất Cờn, nhì Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng”.
Từ Tp. Vinh, theo quốc lộ 46 (hướng Tp. Vinh – trị trấn Đô Lương) khoảng 54km sẽ tới thị trấn Đô Lương, ngược lên phía bắc theo đường 15 khoảng 3km, rẽ trái khoảng 2km sẽ tới Đền Quả Sơn.
Theo thần phả tại Đền Quả Sơn, Đền thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, con trai thứ 8 của Vua Lý Thái Tổ.
Trong suốt những năm giữ chức Tri Châu Nghệ An, với tài kinh bang tế thế, tầm nhìn chiến lược và những chủ trương đúng đắn, Lý Nhật Quang đã đề ra những chính sách tiến bộ để phát triển sản xuất, mở rộng giao thương, bảo vệ trật tự trị an, giữ yên bờ cõi, đặc biệt làm cho Nghệ An trở thành vùng đất hậu thuẫn vững chắc cho các triều đại về sau.
Với công lao to lớn của Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, trên phương diện tâm linh, sau khi ông mất (1057), người dân Nghệ An đã lập nhiều ngôi đền thờ phụng ông, trong đó Đền Quả Sơn là Đền chính.
Đền Quả Sơn – một công trình kiến trúc cổ, đồ sộ bao gồm nhiều hạng mục, điển hình như: tòa nhà hình chữ công gồm Thượng điện, Trung điện và Hạ điện nối liên tiếp với nhau – thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, Tả vu thờ Đông Chinh Vương Lý Lực, Hữu vu thờ Dực Thánh Vương, phần mộ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, nhà bia, nhà ngựa và ông ngựa…
Tại đây còn lưu giữ nhiều cổ vật quý liên quan đến nhà Lý: di tượng cổ độc bản về Uy Minh Vương Lý Nhật Quang làm bằng gỗ quý, sơn son thiếp vàng, mặc áo bào bằng lụa vàng, long ngai, tế khí, ngói mũi hài với kích thước 20 x 30cm, gạch bằng đất nung, hoạ tiết, hoa văn trang trí bằng vật liệu nhẹ và cứng, lư hương đồng, mũ đồng, loa cổ bằng gỗ và bằng đồng, tượng đồng Chăm Pa, khay đựng trầu bằng đồng, cột gỗ, tảng đá làm chân cột…
Vào thời Lê, Lễ hội Đền Quả Sơn đã được đánh giá là một lễ hội uy nghi, hoành tráng nhất tỉnh Nghệ An. Trải qua thời gian, Lễ hội đã bị gián đoạn. Từ năm 1998 đến nay, được sự giúp đỡ của Đảng bộ, Chính quyền Nghệ An, nhân dân huyện Đô Lương long trọng tổ chức Lễ hội Đền Quả Sơn từ ngày 19 – 21/1 âm lịch. Đây là hoạt động nhằm phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, tôn vinh công lao to lớn của Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, bảo tồn, gìn giữ các giá trị văn hoá dân gian truyền thống, đồng thời, là dịp để nhân dân cả nước vui chơi, giải trí, mở rộng giao lưu và thoả mãn nhu cầu tâm linh.
Đền Quả Sơn được Bộ Văn hóa, Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia năm 1998.
6. Động Nang Ni
Vị trí: Động Nang Ni thuộc địa phận xã Châu Cường, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, cách Tp Vinh khoảng 140km về phía tây bắc.
Đây là nơi ghi lại giây phút chia tay của chàng Khủn Tinh và nàng vượn Nang Ni. Nhờ có cuộc chia tay không thành này mà khung cảnh nơi đây mãi mãi mang dáng vẻ tươi trẻ của mùa xuân.
Mỗi mùa xuân về, trên các bản làng của đồng bào Thái ở Quỳ Hợp lại vang lên tiếng hát nhuôn, suối; đây đó người ta sẽ xen vào một vài đoạn hát “nhuôn” được lấy trong truyện thơ “Lai Khủn Tưởng – Khủn Tinh”:
“Phạ khảy chiểng lồ má pỉ mờ. Bọc phờ ma phăng nặm hương hừa pú phả”
Tạm dịch: Mở trời xuân, cõi xinh tươi. Hoa thơm muôn sắc trải ngời non xanh.
Sau khi đọc xong truyện thơ “Lai Khủn Tưởng – Khủn Tinh”, ai cũng thấy chuyện tình của Khủn Tinh và nàng vượn Nang Ni vô cùng xúc động. Vì yêu Khủn Tinh, Nang Ni đã theo chàng về nhà chung sống nhưng sau đó bị mắc mưu hai người vợ trước của Khủn Tinh, Nang Ni đã phải bế con bỏ chạy lên núi đá trú ẩn. Khủn Tinh vì yêu thương hai mẹ con Nang Ni, nên chàng đã chạy theo nàng lên núi đá. Tuy nhiên, giây phút hạnh phúc, vui vẻ giữa Khủn Tinh và Nang Ni cùng con trai bé bỏng chưa được bao lâu thì Khủn Tinh lại bị hai người vợ trước đến bắt về nhà. Giây phút chia tay, lưu luyến của hai người đã làm cho mọi vật xung quanh trở nên tĩnh lặng: gió như ngừng thổi, cây như ngừng reo và chim chóc như không còn tiếng hót và giây phút chia tay ấy đã làm nên cả một sự tích kỳ diệu: Cả gia đình họ đã hóa đá như thể mãi mãi thuộc về nhau, không dời.
Động Nang Ni nằm trong quần thể ba hang động đẹp của khu vực lễ hội Mường Ham. Vì nằm ở vị trí cao nhất, cho nên đường đến động Nang Ni khá xa, phải leo dốc khoảng 200m du khách mới lên tới động.
Để vào trong động, du khách phải qua một cái cửa khá hẹp – cửa động. Tiếp đó, du khách sẽ đi vòng vèo một đoạn đường sáng tối đan xen, du khách sẽ tới lòng động. Cảnh sắc trong lòng động được chiếu sáng nhờ hai cửa thông lên trần. Tại đây, du khách sẽ thấy các dải nhũ đá rủ xuống giống như các bức rèm, bức mành. Ngoài ra, còn có một số hình khối mang dáng dấp của chim chóc, muông thú…
Điều ấn tượng nhất đối với du khách ở đây là các hình khối bằng đá mang hình tượng của Khủn Tinh, Nang Ni và con trai bé bỏng của họ. Họ quay vào nhau, nhìn nhau không dời, trên tay Nang Ni vẫn còn ôm cậu con trai yêu quý. Dường như họ chưa kịp nói với nhau câu gì, vẫn còn rất lưu luyến… thì tất cả đã hóa đá. Ngay cạnh các khối đá ghi lại cảnh chia tay của hai vợ chồng là một hốc đá ăn sâu vào vách động, trông tựa như gian thờ cúng (chong hòng) trong ngôi nhà sàn của người Thái vùng tây bắc Nghệ An.
Nếu có dịp đến huyện Quỳ Hợp, mời du khách ghé thăm động Nang Ni. Tới đây, du khách vừa có dịp được thư giãn trong không gian bao la, rộng lớn của núi rừng vừa có dịp được biết về câu chuyện tình cảm động giữa Khủn Tinh và nàng vượn Nang Ni xinh đẹp.
Biên tập bởi HiVietnam.net – Hữu Lộc
(Theo Vietnamtourism)
Bài viết liên quan
Ý kiến bạn đọc
Do đó, chúng tôi mong muốn sự chia sẻ, đóng góp ý kiến – tin bài – hình ảnh hoặc những đoạn video của Quý vị, nhằm giúp xây dựng một Cổng thông tin với chất lượng tốt, tin bài phong phú và phục vụ tốt nhu cầu của khách du lịch trong nước và nước ngoài. Chân thành cảm ơn sự cộng tác của Quý vị!