Nói với vong hồn quan Nội sai Hoàng Ngũ Phúc
+ Nói với vong hồn quan Nội sai Hoàng Ngũ Phúc
Bài "Võ sáo" tại Lễ hội kỷ niệm Khởi nghĩa nông dân Yên Thế
(Bắc Giang) 2012
* * * * *
Trước đây, tôi đã nghe danh của ông trong lịch sử, một tướng dũng mãnh, có tài thời Hậu Lê. Hôm mới đây, nghe bài tham luận của đại biểu Quốc hội, nhà sử học Dương Trung Quốc
“Nhà nước gặp nhiễu sự, dân còn giúp nước?”, trong đó có trích dẫn câu nói nổi tiếng của ông để nhắc nhở thuật trị nước: “Nước lấy dân làm gốc, nước bình yên, nước hãy để dân yên. Dân
lấy nước làm lòng, khi nhiễu sự dân ra gánh vác”. Tôi được biết, ông có công lớn trong việc đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài và là tổng chỉ huy cuộcNnam tiến đánh Đàng Trong,
“mở mang” đất đai Bắc Hà tới Quảng Nam cho chúa Trịnh, nổi tiếng là người có nhiều mưu kế. Trước ông giữ chức tả thiếu giám, sung giữ chức nội sai trong Hình phiên.
Có lẽ, trong lịch sử Việt Nam, ngoài Lý Thường Kiệt, chỉ có ông, Hoàng Ngũ Phúc (Quận Việp), là tướng xuất thân từ
hoạn quan có tài kiêm văn võ và có nhiều quân công nhất. Tuy nhiên, do thành tích của ông chỉ trong nội chiến, còn Lý Thường Kiệt lập công trong chống ngoại xâm nên Lý Thường Kiệt nổi tiếng hơn
ông. Các thế hệ sau này cũng được truyền thông là ông làm tướng nghiêm túc, cẩn trọng, có uy tín. Khi lâm trận, ông là người quả đoán. Những người trưởng thành dưới tay ông như Hoàng Đình Bảo,
Nguyễn Hữu Chỉnh sau đều là những người nổi tiếng, ngang dọc thiên hạ, dù đều không được trọn vẹn như ông. Sở dĩ ông được trọn vẹn toàn danh, ngoài hoàn cảnh khách quan (khi thế nước Đàng Ngoài còn
mạnh) còn do ông là người biết ứng xử, tiến lui đúng lúc không chỉ trong chính trường mà cả ngoài chiến trường, không mang dã tâm như các hoạn quan Triệu Cao đời nhà Tần, Ngụy Trung Hiếu đời nhà
Minh trong lịch sử Trung Quốc. Bản tính khiêm tốn, thành thực đối đã với người khác hết lòng trung tín, thưởng phạt quân sĩ nghiêm minh. Là người cầm quân dày dặn hơn 30 năm ngoài chiến trường, có
lẽ hơn ai hết ông tự hiểu sức quân Trịnh khi tiến vào tới Quảng Ngãi như dây cung đã trương hết cỡ, không thể cố giành đất phương Nam, vì thế ông chủ động nhường Quảng Nam cho Tây Sơn hy vọng làm
thoả mãn Tây Sơn.
Không chỉ là người có công ổn định tình hình Bắc Hà, ông còn có công mở mang đất đai Bắc Hà xuống phía Nam, lần đầu
tiên đánh bật chúa Nguyễn khỏi đất Thuận-Quảng, khôi phục lại cương thổ nhà Hậu Lê như thời Lê Sơ, điều mà bao thế hệ chúa Trịnh trước chưa làm được. Nhưng dường như cũng chỉ có ông là người hiểu
mình và hiểu người, biết lui tiến ngoài mặt trận.
Sau khi các tướng thế hệ ông và Bùi Thế Đạt mất, cha con chúa Trịnh quá say sưa vì chiến thắng, sinh kiêu ngạo, các tướng kế tục buông lỏng việc quân sự nên không giữ được cương thổ ông đã mở mang và cơ đồ họ Trịnh tiêu tan nhanh chóng. Ít ra Bắc Hà sẽ được bảo tồn lâu hơn. Một khi Tây Sơn không đánh chiếm được Bắc Hà, sẽ không phải phân tán lực lượng ra Bắc và khó có thể khẳng định họ Nguyễn còn cơ hội phục hồi ở Nambộ hay không.
Nghi môn và đền thờ
Quận Việp (Hoàng Ngũ Phúc) ở Tân Mỹ,
Yên Dũng (Bắc Giang)
Ông lo hết lòng phò vua Lê, chúa Trịnh, nhưng từ khi Trịnh Giang cầm quyền, chính sự Bắc Hà bắt đầu suy. Chúa Trịnh Giang
tiêu dùng xa xỉ, thả cửa cho địa chủ cường hào ác bá chiếm đoạt ruộng đất, ức hiếp dân cày, thuế má một ngày một nhiều, sưu dịch một ngày một nặng khiến nhân dân Đàng Ngoài vô cùng cực khổ. Do đó
nông dân Đàng Ngoài đồng loạt đứng lên khởi nghĩa.
Từ năm 1737, nhiều cuộc khởi nghĩ nông dân liên tiếp nổ ra như: Nhà sư Nguyễn Dương Hưng nổi dậy khởi nghĩa ở
Tam Đảo, Vũ Đình Dung nổi dậy ở Ngân Già (nên bị gọi là giặc Ngân Già), hậu duệ nhà Mạc (đã bị đổi họ) là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển cùng Vũ Trác Oánh nổi dậy ở Hải Dương. Theo "Lê Triều dã sử",
Nguyễn Cừ và Nguyễn Tuyển tin theo sấm Trạng Trình: "Phá điền thiên tử xuất, bất chiến tự nhiên thành" (Vỡ ruộng thiên tử ra, không đánh tự nhiên thành) nên dựng cờ khởi nghĩa. Tiếp đến là
các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương, Lê Duy Mật, Nguyễn Dương Hưng; nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất, Nguyễn Hữu Cầu, tiếp tục tập hợp lực lượng và trở thành hai cánh quân
khởi nghĩa lớn và làm hao binh tổn tướng của chúa Trịnh nhiều hơn cả.
Ngoài những cuộc khởi nghĩa trên còn một số khởi nghĩa khác. Phong trào khởi nghĩa trải rộng khắp Bắc bộ vào tới
Thanh Hóa, Nghệ An. Các cuộc khởi nghĩa phần đông lấy tiếng "phù Lê diệt Trịnh" làm cớ. Nhân dân mặt đông nam mang bừa vác gậy đi theo quân khởi nghĩa, toán nào đông thì kể có hàng vạn người, toán
nào ít thì cũng có đến hàng trăm hàng nghìn người, rồi đi cướp phá ở các hương thôn và vây các thành ấp, quân triều đình đánh dẹp không được.
Trong cung, Trịnh Giang suy thoái đạo đức, lối sống, sa vào tiền và gái, nhất là xa xỉ tư thông với cung nữ của cha, lại bị sét
đánh hụt nên tin theo lời hoạn quan, làm nhà hầm ở luôn dưới đất để tránh sét, còn việc chính trị thì để cho các hoạn quan là bọn Hoàng Công Phụ chuyên quyền làm bậy. Trước tình hình đó, gia tộc họ
Trịnh quyết định phế truất Giang, lập em Giang là Trịnh Doanh lên ngôi năm 1740. Là người có tài, Trịnh Doanh bắt đầu chỉnh đốn tình hình trong nước, ra tay đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa.
Điều đã được ghi rõ trong sử sách là ông, quan Nội sai Hoàng Ngũ Phúc, đã có công đem binh dẹp
cuộc khởi nghĩa nông dân của Nguyễn Hữu Cầu (Quận He). Vì ngày thường cướp được thóc gạo của thuyền buôn, đem cho dân nghèo, cho nên Quận He đi đến đâu cũng có người theo, muốn lấy bao nhiêu quân
lương cũng có. Nguyễn Hữu Cầu được các sử gia đánh giá là người kiệt hiệt, nhiều mưu mẹo nhất trong số các thủ lĩnh khởi nghĩa lúc đó. Có khi bị vây hàng mấy vòng, ông chỉ một mình một ngựa phá vây
ra, rồi chỉ trong mấy ngày lại có hàng vạn người đi theo.
Tôi đọc sử ghi lại, biết ông đã hết lòng phù chúa Trịnh, đi dẹp các cuộc khởi nghĩa của nông dân. Ông đã mưu
trí vây quân khởi nghĩa của quận He ở núi Đồ Sơn, buộc Nguyễn Hữu Cầu phải phá vây ra, rồi chớp thời cơ cho quân khởi nghĩa đánh về đánh lấy thành Kinh Bắc. Trấn phủ là Trần Đình Cẩm và Đốc đồng là
Vũ Phương Đề đánh thua ở Thị Cầu phải bỏ ấn tính mà chạy; ở Thăng Long, được tin ấy rất lấy làm báo động. Ông liền đem binh về, cùng với Trương Khuông lấy lại thành Kinh Bắc, nhưng thế Nguyễn Hữu
Cầu vẫn mạnh, phá quân của Trương Khuông ở làng Ngọc Lâm (thuộc huyện Yên Dũng), đuổi quân của quan thống lĩnh Đinh Văn Giai ở Xương Giang (thuộc huyện Bảo Lộc) rồi lại về vây dinh Thị Cầu. Trịnh
Doanh sai ông và Phạm Đình Trọng đem binh đến đánh bại Nguyễn Hữu Cầu ở Xương Giang. Năm 1751, Phạm Đình Trọng đem quân vào đánh phá trại. Hữu Cầu chạy đến làng Hoàng Mai thì bị bắt, đóng cũi đem
về nộp chúa Trịnh và bị hành hình. Tương truyền trước khi chết ông có làm bài thơ "Chim trong lồng" nổi tiếng: “… Mặc bay đông ngữ, tây đàm / Chờ khi phương tiện dứt dàm vân lung / Bay thẳng
cánh muôn trùng tiêu Hán / Phá vòng vây làm bạn kim ô / Giang sơn khách diệc tri hồ?”. Đến năm 1751, cơ bản các cuộc khởi nghĩa bị dẹp yên, chỉ còn Lê Duy Mật và Hoàng Công Chất dựa vào nơi xa
xôi, hiểm yếu vẫn cầm cự được tới đầu thời Trịnh Sâm.
Ông cũng đã lập công với chúa Trịnh là đánh bại quân Tây Sơn vào tháng 2-1775 ở Cấm Sa (Quảng Nam). Nhưng ông cũng khá thức thời
là khi ở tuổi 62 sức đã yếu, lại bị bệnh, nên tháng 7 năm 1775, cùng lúc bệnh dịch hoành hành, lại nghe tin Nguyễn Huệ thắng quân Nguyễn chiếm lại Phú Yên, quận Việp án binh lại. Ông biết Tây Sơn
đã đủ thực lực đứng vững, quân Trịnh không thể diệt được, nhất là khi quân của ông đi xa nhà đã mệt mỏi và phát dịch bệnh. Theo đề nghị của Nguyễn Nhạc, ông đã phong chức cho Nguyễn Huệ làm
“Tây Sơn hiệu tiền tướng quân”. Biết mình không thể đương nổi việc quân nữa, tháng 9 năm đó ông bí mật bàn với các tướng rút quân về. Hai tướng văn là Nguyễn Nghiễm ( cha của Nguyễn
Du) và Nguyễn Lệnh Tân bàn nên rút về Quảng Nam, và đặt quan trông giữ phần lãnh thổ chiếm được. Còn ông ệp chủ trương rút hẳn về Thuận Hóa, vùng đất Quảng Namsẽ tính sau. Ông sai người cầm thư đi
gấp về Thăng Long xin ý kiến Trịnh Sâm. Trịnh Sâm xưa nay rất tin tưởng ông nên tán đồng đề nghị của ông. Quân Trịnh rút khỏi Quảng Ngãi lui hẳn về Phú Xuân.
Nhờ công lao đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa, Hoàng Ngũ Phúc được phong làm Việp quận công, thường gọi là
Quận Việp. Năm 1754, Thượng thư bộ Binh Phạm Đình Trọng chết sớm, Hoàng Ngũ Phúc trở thành vị tướng quan trọng nhất của triều đình. Sau đó ông xin từ chức về hưu, được phong làm quốc lão. Cuối đời,
ông đã nhận ra rằng: Thực chất các cuộc khởi nghĩa vẫn có tính độc lập và chúa Trịnh, bên cạnh việc điều chỉnh chính sách để giảm bớt gánh nặng cho dân, đã biết cách tận dụng điểm yếu này để tiêu
diệt từng cuộc khởi nghĩa. Việc Trịnh Doanh, tại từng thời điểm, cho thủ lĩnh này hay thủ lĩnh khác giảng hoà, phong chức chính là cách chia bó đũa để bẻ từng chiếc.
Ông đã đem tài trí hết lòng, dốc sức phù chúa Trịnh, một thể chế có sức bền 242 năm - là tập đoàn phong kiến kiểm soát quyền lực nhà
nước Đại Việt thời Hậu Lê, khi nhà vua không có thực quyền vẫn được duy trì ngôi vị. Bộ máy triều đình lúc này hoạt động theo thể chế lưỡng đầu: "Chẳng đế chẳng bá / Quyền nghiêng
thiên hạ / Truyền được tám đời / Trong nhà dấy vạ".
Tôi nhắc lại sự bùng phát rầm rộ và diễn biến liên tục các cuộc khởi nghĩa của nông dân Đàng Ngoài vào thời Trịnh Giang, xuất phát từ nỗi
bất bình của nhân dân bị bóc lột bần cùng. Tuy nhiên, theo các nhà sử học, sau đó các cuộc khởi nghĩa không có được sự liên hợp cần thiết để đủ sức đánh đổ chính quyền Lê -Trịnh. Và cũng xin nhắc
lại điều ông nói là chuẩn xác: “Nước lấy dân làm gốc, nước bình yên, nước hãy để dân yên. Dân lấy nước làm lòng, khi nhiễu sự dân ra gánh vác”.Quan niệm của ông như vậy là đi đúng nghĩa
khí nông dân nước Việt: “Có áp bức, có đấu tranh, đấu tranh để giành quyền sống, quyền làm người, quyền mưu cầu hạnh phúc, đi tới ước mơ công bằng xã hội”.
Có điều, chiến công truy dẹp khởi nghĩa nông dân của ông chẳng mấy ai ca ngợi. Ông dùng hết tài trí, sức lực vì sự
“trung quân”, nhưng nếu xét cho cùng ông chưa phải là nhà “ái quốc”. Đúng ra, hoàn chỉnh tài đức của quan lại thời đó là phải đạt được cả hai tiêu chuẩn “trung quân và ái quốc”. Đã “ái quốc” thì
phải biết thương dân, nhất là nông dân nghèo cần lao, chịu nhiều tầng áp bức, bóc lột của xã hội thời đó. Điều này, về cuối đời ông có sự sám hối.
Ở năm thứ 12 của thế kỷ 21 này, có những vụ được gọi là “nông dân nổi dậy”, tuy không đến mức như khởi nghĩa ngày xưa, nhưng cũng là sự đấu tranh
giữa cường quyền với lợi ích thiết thân, lợi ích chính đáng, cũng là sự đấu tranh cho công bằng xã hội mang hình thức dân chủ, với các vụ đã làm rung động cả nước như: Tiên lãng, Văn Giang, Vụ Bản,
Dương Nội, Cần Thơ…Nếu ông được người có chức quyền ra lệnh đàn áp nông dân chỉ vì nhóm lợi ích của quan quyền, của đại gia, liệu ông có vì hai chữ “trung quân” cứng đờ đến mức "ngu trung" mà quên
hai chữ "ái quốc" thiêng liêng, thẳng tay đàn áp nông dân nghèo hèn hay không? Cho nên, người ta vẫn nói, đấng minh quân, quan hiền đức “chấp lệnh tại triều, hành sự tại tâm”. Cũng do đi dẹp nhiều
cuộc khởi nghĩa nông dân mà về cuối đời ông mới đúc kết được câu nói :” Nước lấy dân làm gốc… hãy để dân yên…”. Ông lưu danh hậu thế không phải vì những chiến công dẹp loạn, những chiến công ấy đã
có chúa Trịnh lộng quyền, lấn át vua ghi nhận, mà có lẽ bởi câu nói đúc kết chân lý ấy hậu thế đã nhớ đến ông. Quả là “hùm chết để da, người ta chết để tiếng”.
Ông xa cõi trần đã 236 năm rồi, cho dù ông đã “trung quan” đến mức như “ngu trung”, gắng sức lập công phù chúa Trịnh, đàn áp các
cuộc khởi nghĩa của nông dân, đánh Nam dẹp Bắc trong các cuộc tranh giành đất đai và quyền bính, nhưng câu nói của ông về lòng dân với nước vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay và mai sau. Kính
chúc hương hồn của ông siêu thoát và có linh thiêng thì giúp cho xã hội Việt Nam thực sự đạt được như mức phấn đấu mà Nghị quyết Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI đã nêu: “Tiếp tục
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bài viết này xin được coi như nén nhang thắp viếng lăng mộ của ông.
Bùi Văn Bồng
-------------------------
-------------------------
Có những yêu thương, những nồng nàn chỉ riêng mình em cảm nhận được. Đừng hỏi tại sao. Khi người ta đã thương yêu thì làm gì có lý do? Dù yêu thương ấy sâu đậm hay hững hờ thì bản thân yêu thương ấy đã tồn tại trong em như hạt mầm đã bén rễ, ăn sâu vào tâm hồn.
Có những yêu thương, những nồng nàn chỉ riêng mình em cảm nhận được.
Có những yêu thương, những nồng nàn chỉ riêng mình em cảm nhận được. Đừng hỏi tại sao. Khi người ta đã thương yêu thì làm gì có lý do? Dù yêu thương ấy sâu đậm hay hững hờ thì bản thân yêu thương ấy đã tồn tại trong em như hạt mầm đã bén rễ, ăn sâu vào tâm hồn.