Có một phủ Chúa Trịnh ở Yên Nghĩa, Hà Đông



Tĩnh Vương Trịnh Sâm (1739-1782) có 3 bà phi: - Chính phi Hoàng thị Ngọc Phương, quê Linh Đường, Thanh Trì, Hà Nội.

Bà có 2 Công chúa : Công chúa Ngọc Anh và Công chúa Ngọc Lan. Công chúa Ngọc Anh, Chúa đã gả cho Đường Trung Hầu Bùi Thế Toại, con trai cả Bùi Danh Đạt, là trấn thủ Nghệ An. – Thái Phi : Dương thị Ngọc Hoan, quê làng Long Phúc, huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh sinh 1 người cỏntai là Trịnh Khải ( Trịnh Tông ) tức Đoan Nam Vương. – Tuyên Phi: Đặng Thị Huệ, quê Phù Đổng, Tiên Du Bắc Ninh, nay là Gia Lâm, Hà Nội. có một con trai là Trịnh Cán, tức Điện đô Vương.

Bà Dương Thị Ngọc Hoan được tuyển vào cung, trong một đêm nằm mơ thấy có một vị thần cho một tấm đoạn có vễ đầu rồng, bà không hiểu điềm đó là gì, hỏi viên quan hầu là Khê Trung Hầu. Vị này biết là điềm sinh Thánh. Đêm sau, Chúa cho vời cung tần Ngọc Khoan vào hầu, Khê Trung Hầu cố ý giả nghe lầm, đưa ngay Ngọc Hoan vào, thấy nàng , Chúa tỏ ý không bằng lòng, nhưng đã chót đến, không nỡ đuổi ra. Sau đó trách , mắng Khê Trung Hầu. Khê Trung Hầu cúi đầu tạ tội, và thuật rõ đầu đuôi câu chuyện thái phi nằm mơ.. Chúa Trịnh Sâm nín lặng, không nói sao cả. Sau đó Thái phi sinh một con trai năm Quí Mùi (1763 ) cùng tuổi với Chúa, là Trịnh Khải, Chúa nghĩ Đầu rồng có khí vượng làm Vua, chúa nhưng chỉ là rồng vẽ, chỉ có đầu rồng, không có đuôi, chưa hẳn là điều tốt, do đó Chúa không vui. Các quan văn, võ vào chúc mừng, Chúa cho rằng không phải là Chính phi đẻ ra nên từ chối, không nhận lời chúc mừng, dù khi Trịnh Tông đã lớn, dung mạo rất khôi ngô tuấn tú mà Chúa cũng chẳng yêu chiều.

Trịnh Khải ham võ nghệ, không thích học hành, năm 7 tuổi Chúa sai Nguyễn Khản, Tiến sĩ năm Canh Thìn 1760 và Trần Thản, Tiến sĩ năm Kỷ Sửu 1769 rèn rập. sau vì ở Thăng Long có nhiều việc, Trần Thản chết, việc dạy dỗ không được chu đáo, Chúa biết điều này và cũng không bằng lòng.

Trong lúc đó, tiếng sét ái tình đã nổ ra với nữ tỳ Đặng Thị Huệ, người quê Phù Đổng, Tiên Du. Huệ mắt phượng, mày ngài vẻ người mười phần xinh đẹp, Chúa thấy rất bằng lòng, không những thế, Huệ còn giỏi Hán Nôm và đàn hát, khác với lệ thường, Đặng Thị Huệ còn được ở cùng với Chúa để tiện ăn ở, đàm đạo với Chúa nhiều việc rất ăn ý. Về sau, Đặng được phong là Tuyên Phi. Năm 1778, Tuyên Phi sinh con trai là Trịnh Cán..

Thấy không được yêu quí, Thái phi xin Chúa mở một hành cung trên đường Vua, Chúa vào tử Trầm luyện võ, luyện quân ( khu vực Chương Đức xưa ). Chỗ đất ấy nằm cạnh đường 6, giữa 2 thôn Gio Lộ và Nghĩa Lộ, xã Yên Nghĩa gần quê Thái phi Nguyễn Thị Ngọc Phụng, đời Chúa Trịnh Căn là Tam Lộ, Ngũ Lãm ( Gio Lộ, Nghĩa Lộ, Yên Lộ; Thanh lãm, Quang Lãm, Bắc Lãm, Đông Lãm và Thắng Lãm ). Vùng này rất giỏi hát ả đào, ca trù. Thứ nghệ thuật mà Chúa Trịnh Sâm thường say mê, khuyến khích phát triển.

Chúa sai Nguyễn Khản và cận thần vễ kiểu, đưa thợ về Nghĩa Lộ xây dựng cung thất, tuy nhỏ nhưng hành cung cũng đủ: sảnh đường, phòng thất, nội tẩmcho thái phi, Đông cung cho Thế tử, nhà học văn, luyện võ, nhà hát, nhà cho người ở, nơi dạy học…Công trình như một Phủ Chúa thu nhỏ. Ao Vạc cạnh làng Tuân được xây dựng thành hồ sen, thuyền rồng có thể bơi được, giữa là thủy đình, khuôn viên có bài trí nhiều cây, cỏ lạ và chim thú quí hiếm. Sống ở đây, còn có ý khác nữa là Thái phi biết Chúa chưa bao giờ yêu mình thực sự, và sớm muộn cũng có điều không hay cho 2 mẹ con, lánh đi một nơi, nuôi con khôn lớn, may có thể tránh điều thị phi… Thái phi có tậu hơn 30 mẫu ruộng để cấp cho những người đi lính gọi là “ Binh điền”, cho các học trò đi thi Hương, thi Hội gọi là “ Học điền”.

Từ khi Thái phi về đây, nhiều công trình xây dựng : đường xá, đình chùa, văn hóa, kinh tế được mở mang.. Nhân dân địa phương rất ơn Bà Làng Nghĩa Lộ vẫn giữ Húy kỵ của bà tại đình làng ngày 16-2 Âm lịch hàng năm.

Do sự nông nổi của Trịnh Khải trong vụ án năm Canh Tý 1780, Trịnh Sâm nổi giận toan chém Trịnh Khải, Chúa bèn giáng xuống làm con út và lập Trịnh Cán, con Tuyên Phi Đặng Thị Huệ lên ngôi Thế Tử lúc 5 tuổi. Điều Thái phi lo từ trước đã sảy ra. Khi Trịnh Sâm mất( !782), Trịnh Cán lên ngôi, Đặng Thị Huệ nhiếp chính, Triều thần không phục, phế bỏ Cán, lập Trịnh Khải làm Chúa, đây là thời kỳ rối ren, hủy hoại gia phong, pháp luật đẫn đến suy vong của Vương triều sau đó. Bà ốm nặng và qua đời sau đó. Mộ bà táng ở khu ruộng “ Trũng Táo” của làng Gio Lộ ( Tuân), hiện nhân dân vẫn gọi là khu mộ Bà Chúa.

Khi Nguyễn Hữu Chỉnh phản bội nhà Trịnh, theo Tây Sơn, đã cho người triệt phá phủ đệ của Chúa Trịnh ở đây thành bình địa, Chúa Trịnh Khải chạy lên vùng Sơn Tây và tuẫn tiết, dẫn đến Lý Trần Quán quên mình vì Chúa.Thời kỳ này, nhiều người họ Trịnh ở khu vực Yên nghĩa đã phải đổi họ để bảo toàn tính mạng.
Cuối năm 2006, do nhà nước lấy đất khu mộ Bà làm khu công nghiệp. Dân làng Nghĩa Lộ đã đưa rước thi hài Bà vào nhà tưởng niệm của thôn. Khi di chuyển, ngôi mộ không bật nắp ván, đã phải dùng cần cẩu để đưa toàn bộ quan, quách trộn bằng đá, vôi, mật lên mặt đất. Lễ đưa rước được tổ chức hết sức trang nghiêm và được đặt trong nhà tưởng niệm của thôn Nghĩa Lộ, xây cất kiên cố với diện tích 12m2 rất trang nghiêm.

Hiện di tích của Cung Phủ Bà Chúa còn nhièu hiện vật bằng đá, gỗ như câu đối, hoành phi…rải rác ở các gia đình nhà thờ họ Lê, nhà thờ đại tướng Lê Trọng Tấn..Trong đó có câu đối :

Trường lưu Hát thủy Lê gia phái
Bán nguyệt liên hồ Trịnh tích di.

Nghĩa :

Họ Lê dài sâu như sông Hát.
Hồ sen bán nguyệt là di tích Phủ Trịnh.

Đây là một di tích của nhà Trịnh có thể nói là gần đây nhất đã được phát hiện và được tôn tạo, thờ cúng tôn nghiêmở Yên Nghĩa, Quận Hà Đông. Địa điểm sát cạnh kinh đô Thăng Long xưa.

Anh Tuấn

There are no comments yet

Tin khác đã đăng