LOGO CỦA WEBSITE NÀY

Xem lẹ

Trang nhà > Đền miếu > Đền Yên Thành

Yen Thanh Temple

Đền Yên Thành

Temple Yen Thanh

Thứ Ba 1, Tháng Mười 2013

Đền Yên Thành có từ cuối thời Lê, bên trong thờ bà Lý Chiêu Hoàng vị vua cuối cùng của nhà Lý. Xếp hạng: Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật thành phố (năm 2002). Địa chỉ: số 28 phố Phan Huy Ích, phường Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình, Hà Nội. Toạ độ: 21°02’27"N 105°50’42"E, cách Hồ Gươm hơn 1km về hướng tây-bắc. Điểm dừng xe bus gần nhất: đoạn giữa các phố Quán Thánh (bus 14, 18, 22, 23), Hàng Than (31) hoặc đoạn đầu các phố Phan Đình Phùng (14, 22), Phùng Hưng (01, 18, 23).

JPEG - 230.5 kb
Đền Yên Thành, 28 phố Phan Huy Ích. Ảnh ©2015 NCCong

Kiến trúc

Đền Yên Thành có nhiều điểm tương đồng như ngôi đền Yên Thái ở ngõ Tạm Thương. Tòa tiền tế gian áp sát mặt phố Phan Huy Ích, hai bên bậc lên thềm có đôi rồng đá nằm chầu. Phía trong là nhà thiêu hương, hai bên có hành lang tả hữu với các ban thờ nhỏ. Hậu cung thâm nghiêm là nơi thờ đức Vua Bà Lý Chiêu Hoàng.

Điểm nổi bật của ngôi đền là nghệ thuật trang trí trên các bức chạm nổi hình rồng. Kẻ, xà ngang, đấu kẻ chạm hình lá đề, vân xoắn, diềm mái phía trước tiền tế có hình hổ phù, hoa lá, chữ triện.

JPEG - 213.2 kb
Trong đền Yên Thành. Ảnh ©2015 NCCong

Lược sử

Yên Thành là vùng đất có bề dày lịch sử. Thời Lê, Yên Thành là một trong số tám làng có tên gọi bắt đầu bằng chữ “Yên”, thuộc tổng Yên Thành, huyện Vĩnh Thuận. Tám làng đó ở giữa một khu vực với mặt phía nam là tường thành Hà Nội (nay là phố Phan Đình Phùng), mặt phía bắc là hồ Trúc Bạch và hồ Mã Cảnh (Cổ Ngựa), mặt phía đông giáp phường Hòe Nhai và mặt phía tây giáp phường Thụy Chương.

Trải qua nhiều biến động của thời gian, đến nay trong đền Yên Thành vẫn còn lưu giữ được nhiều di vật có giá trị. Đó là những tượng thờ, hương án, sập thờ, cửa võng, kiệu rước mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 19 được nghệ nhân tạo tác rất tỉ mỉ, công phu, sơn son thếp vàng lộng lẫy và đều có chạm rồng phượng. Hệ thống tượng tròn gồm 21 pho, trong đó có 9 tượng các vua triều Lý và các tượng thánh, tượng chầu.

Đặc biệt trong đền có pho tượng Lý Chiêu Hoàng được thể hiện bằng trình độ nghệ thuật cao. Ngoài ra còn có các tư liệu thành văn như thần tích, sắc phong, bia đá làm thành nguồn dữ liệu quý giá góp phần tìm hiểu về lịch sử, văn hóa Thăng Long. Ngày 31.12.2002, đền được xếp hạng Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố.

Ngã phố Quán Thánh—Phan Huy Ích. Panorama ©2015 NCCong

JPEG - 205.1 kb
Ban thờ Mẫu, đền Yên Thành. Ảnh NCCong ©2015

Vua Bà Lý Chiêu Hoàng

Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Vì vua Huệ Tông không có con trai nên mùa đông tháng Mười xuống chiếu lập Công chúa Chiêu Thánh làm Hoàng Thái Tử để truyền ngôi cho. Chiêu Thánh lên ngôi đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo. Năm thứ nhất tôn hiệu là Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng húy là Phật Kim, sau đổi là Thiên Hinh, con gái thứ của vua Lý Huệ Tông, mẹ là Trần Thị”.

Theo cuốn “Lý Thái Hậu thực lục” bản thần tích chữ Hán và một số tài liệu khác: Chiêu Hoàng sinh vào tháng 9-1218. Trước đó hai năm, người chị gái của bà là công chúa Thuận Thiên chào đời. Vì vua cha không có con trai, tháng 10-1224, bà được phong làm Hoàng Thái tử rồi lên ngôi vua lúc mới 7 tuổi. Tháng 12 năm Ất Dậu, do sự xếp đặt của Trần Thủ Độ —lúc này đang là Điện tiền chỉ huy sứ (coi giữ mọi việc quân sự ở Kinh thành)— Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh cũng 7 tuổi và nhường ngôi cho chồng. Lý Chiêu Hoàng đang từ ngôi chí tôn phải xuống làm Chiêu Thánh Hoàng Hậu.

JPEG - 34.2 kb
Hoành phi, câu đối và bằng công nhận di tích

Theo Phan Duy Kha, vợ chồng ăn ở với nhau được 12 năm. Trở thành hai thanh niên ở độ tuổi đáng lẽ tình yêu phải nở hoa kết trái nhưng thật không may Hoàng hậu không hề có thai. Lúc này, người chị gái là Thuận Thiên lấy Trần Liễu (anh ruột Trần Cảnh) đang mang thai. Sợ vua không có người nối dõi, Trần Thủ Độ đã có một quyết định hết sức trái với luân thường đạo Lý. Đó là bắt Trần Liễu phải nhường vợ cho Trần Cảnh. Thế là nàng Thuận Thiên lại trở thành Hoàng Hậu, còn Lý Chiêu Hoàng bị đánh tụt xuống làm công chúa và phải vào ở lãnh cung.

Cũng vì quyết định này mà Trần Liễu nổi dậy làm phản đem quân chống lại Triều đình. Còn Trần Cảnh thì áy náy không yên vì mang tiếng cướp vợ anh, bỏ vợ mình, tuy tình cảm hai người đang rất nồng đượm. Ông quyết tâm bỏ ngai vàng để lên núi Phù Vân (Yên Tử) đi tu. Sự kiện đó xảy ra vào năm 1237.

Năm 1258, ở tuổi 40, Chiêu Thánh được gả cho Lê Phụ Trần một vị tướng có công lớn trong việc đánh lui quân Nguyên lần thứ nhất (vào năm 1257). Họ sống với nhau thuận hòa, sinh được hai người con, con gái tên là Khuê được phong Ưng Thuỵ công chúa, con trai tên là Tông được phong tước Thượng vị hầu.[1]

JPEG - 50.5 kb
Tượng Lý Chiêu Hoàng ở đền Rồng

Bà mất tháng 3-1278 khi vừa tròn 60 tuổi (sử ghi 61 tuổi là tính theo tuổi ta). Theo truyền thuyết dân gian thì lúc ấy Chiêu Thánh vẫn còn là một người phụ nữ rất đẹp, má bà vẫn hồng, môi đỏ và đặc biệt tóc không hề có sợi bạc. Mộ bà được táng tại khu lăng mộ các vua nhà Lý ở Đình Bảng, gọi là lăng Cửa Mả. Tuy không được thờ trong đền thờ 8 vị vua triều Lý (đền Lý Bát Đế) nhưng bà được thờ ở một ngôi đền riêng, gọi là đền Rồng.

Cuộc đời của Lý Chiêu Hoàng nằm ở trung tâm của vòng xoáy quyền lực, vì vậy mà số phận của bà rất đặc biệt, bị quăng lên quật xuống bao nhiêu lần. Số phận cuối cùng cũng mỉm cười với bà, khi bà bước ra ngoài vòng xoáy đó. Bà sinh ra để làm một người phụ nữ yêu chồng, thương con, sống một cuộc đời đáng kính. Sinh thời Chiêu Thánh nổi tiếng là người nhân hậu, có lòng từ bi quảng đại. Vượt qua dâu bể, đôi câu đối quý còn lưu giữ trong đền Yên Thành mãi mãi là lời nhắn gửi tới du khách thập phương và gợi nhiều suy ngẫm:

JPEG - 44.2 kb
Đền Rồng ở Đình Bảng, Từ Sơn. Ảnh ©2013 NCCong

“Vạn cổ tinh quang hồ thượng miếu
Thiên thu thắng tích nữ trung vương”

(Muôn thuở sáng soi miếu bên hồ nước
Nghìn năm cảnh đẹp vua giới nữ lưu).

Di tích lân cận

Bản đồ trực tuyến

Chú thích

[1] Theo Trần Bá Chí trích dẫn lại Ngọc phả và Cổ Mai bi ký thì Thượng vị hầu Lê Tông chính là tướng quân Trần Bình Trọng. Vào năm 1285 trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2, ông bị giặc bắt được. Trước sự dụ dỗ của giặc, ông đã nói một câu nổi tiếng: “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc.”


Đông Tỉnh

Có nhắn tin hay bình luận gì không?

xét trước, đăng sau

Diễn đàn này được điều hợp trước: bài vở đóng góp sẽ xuất hiện sau khi được quản trị viên chấp thuận.

Chi tiết về bạn (không bắt buộc)
Votre message
  • (Để bắt đầu đoạn văn mới, bạn chỉ cần chừa hàng trống)