Thuận Thiên (hoàng phi)
Trần Thị Đang 陳氏璫 |
|||
---|---|---|---|
Hoàng hậu nhà Nguyễn | |||
Tại vị | Truy phong | ||
Tiền nhiệm | Thừa Thiên Cao Hoàng hậu | ||
Kế nhiệm | Tá Thiên Nhân Hoàng hậu | ||
Hoàng thái hậu nhà Nguyễn | |||
Tại vị | 1820 - 1840 | ||
Tiền nhiệm | Hiếu Khang hoàng thái hậu | ||
Kế nhiệm | Từ Dụ hoàng thái hậu | ||
Thái hoàng thái hậu nhà Nguyễn | |||
Tại vị | 1840 - 1846 | ||
Tiền nhiệm | Không có Thái hoàng thái hậu đầu tiên của triều đại |
||
Kế nhiệm | Từ Dụ thái hoàng thái hậu | ||
Thông tin chung | |||
Phu quân | Nguyễn Thế Tổ Gia Long hoàng đế |
||
Hậu duệ |
|
||
Tước hiệu | Nhị phi Hoàng quý phi Hoàng thái hậu Thái hoàng thái hậu |
||
Thụy hiệu | Thuận Thiên Hưng Thánh Quang Dũ Hóa Cơ Nhân Tuyên Từ Khánh Đức Trạch Nguyên Công Cao hoàng hậu 順天興聖光裕化基仁宣慈慶德澤元功高皇后 |
||
Hoàng tộc | nhà Nguyễn | ||
Thân phụ | Trần Hưng Đạt | ||
Thân mẫu | Lê phu nhân | ||
Sinh | 1767 huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên |
||
Mất | 1846 Phú Xuân, Việt Nam |
||
An táng | 1848Lăng Thiên Thọ Hữu |
Trần Thị Đang (chữ Hán: 陳氏璫, 1767 - 1846), là hoàng hậu thứ hai của Hoàng đế Gia Long, mẹ của Hoàng đế Minh Mạng thuộc triều đại nhà Nguyễn.
Bà cùng Thừa Thiên Cao Hoàng hậu là hai người vợ gắn bó với vua Gia Long thưở còn hàn vi, lập nghiệp. Bà hưởng phúc đến đời cháu là Hoàng đế Thiệu Trị, ở ngôi vị cao quý nhất cung đình nhà Nguyễn, từ khi Thừa Thiên Cao hoàng hậu mất vào năm 1814 đến khi bà qua đời vào năm 1846, tổng cộng 32 năm.
Mục lục
Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]
Gả cho Gia Long[sửa | sửa mã nguồn]
Bà là con gái thứ của ông Trần Hưng Đạt và bà phu nhân Lê thị.[1]. Gia đình bà ở huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên[2].
Khi biến loạn năm Giáp Ngọ, Hiếu Khang hoàng hậu lẩn nấp ở làng An Du, bà được tuyển vào hầu cận vì là con nhà danh giá. Năm 1778, Gia Long sai người rước mẹ vào Gia Định, tới năm 1789 bà cùng các chị em của Gia Long cũng vào theo. Bà khi 14 tuổi, được tấn phong là Tả Cung tần (左宮嬪), hiệu là Nhị phi (二妃).
Khi quân Tây Sơn còn mạnh thế, bà theo Gia Long phiêu bạt nhiều nơi, đêm thường thắp hương cầu khẩn: "Lúc này vận nước còn khó khăn, chưa dược an định, nếu sinh con mà bỏ đi thì bất nhân mà mang theo chỉ bận lòng chúa thượng. Nếu số mệnh có con thì xin thái bình rồi mới sinh, mong trời ban được như thế"[2].
Năm 1788, sau khi khôi phục được Gia Định, một đêm bà nằm mộng thấy một vị thần dân lên một cái tỉ và hai cái ấn; cái tỉ màu sắc đỏ bóng nhẫy tươi sáng như mặt trời; một cái ấn thì sắc tía, cái kia thì sắc rất nhạt, bà nhận lấy tất cả[2].
Năm 1789, bà sinh ra Nguyễn Phúc Đảm ở thôn Hoạt Lộc (thuộc Gia Định)[1][2].
Năm 1802, Gia Long đăng cơ Hoàng đế, sách lập Tống phu nhân làm Hoàng hậu, bà được phong làm Hoàng quý phi (皇貴妃), thay quyền Hoàng hậu trông coi mọi việc trong cung.
Hoàng thái hậu nhà Nguyễn[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Minh Mạng thứ nhất (1820), bắt đầu xây cung Từ Thọ, phong thưởng cho người họ ngoại. Các quan cùng vua xin dâng tôn hiệu bà lên làm Thái hậu, bà cảm thấy Gia Lonng hoàng đế chưa chôn được bao lâu, Hoàng đế đương kim lại vì chuyện mà lo buồn, sợ hãi, ấy vì thế mà khước từ đi[2].
Năm 1821, cung Từ Thọ xây xong,vua Minh Mạng cùng bá quan dâng biểu tôn bà làm Hoàng thái hậu, vào ở trong cung Từ Thọ. Bà là người tính cần kiệm, từng đặt nhà thêu nuôi tằm trong cung, hằng ngày đều đến trông nom.
Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), Minh Mạng truy tôn cha bà làm Đông các học sĩ, Thái phó, phong là Hoa quốc công. Lê phu nhân mẹ bà là Hoa quốc nhất phẩm phu nhân. Miễn thuế lệ tô rượng cho làng họ ngoại 5 năm, cho thêm tiền để cung việc tế tự 3 từ đường họ Trần là 1000 quan.
Khi Minh Mạng đến hầu cơm, bà thường đứng dậy đi lại để tỏ ra khỏe mạnh, lại dạy rằng: " ta biết Hoàng đế chăm lo suốt ngày, há nỡ lấy cái tuổi gần 70 mà lại làm lụy cho con, cho nên hàng ngày cố gắng ăn thêm, tự thấy tâm thần thảnh thơi, Hoàng đế nên chớ phải lo". Vua cả mừng, khóc lạy tạ[2].
Năm thứ 18 (1837), mùa đông, tháng 11, ngày 16, vua cùng bá quan tôn hiệu bà là Nhân Tuyên Từ Khánh Hoàng Thái Hậu (仁宣慈慶皇太后).
Khi Minh Mạng mất (1840), tôn chiếu Hoàng tử trưởng Trường Khánh công nối ngôi, tức Hoàng đế Thiệu Trị. Quan đại thần Trương Đăng Quế tâu lên, bà dụ rằng: " Cha truyền con nối là đạo thường xưa, bọn ngươi phải dốc toàn tâm mà giúp đỡ ấu đế".
Nhất quốc chi mẫu[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1841, vua Thiệu Trị dâng tôn hiệu cho bà là Nhân Tuyên Từ Khánh Thượng Thọ Thái Hoàng Thái Hậu (仁宣慈慶福壽康寧太皇太后).
Bà thường thong dong bảo Thiệu Trị về việc tin dùng người cũ, tuân theo phép nước, khéo nối chí, khéo léo theo việc mới là hiếu, đáng làm trưởng, đáng làm vua mới là người trên. Lại cho bài luận về vua tôi, dạy bảo rất cặn kẽ cho vua nghe.
Mùa hạ cùng năm, truy phong cha bà lên làm Cần chính điện đại học sĩ thái sư, là Thọ Quốc công, vợ Lê phu nhân là Thọ Quốc nhất phẩm phu nhân.
Khi Thiệu Trị đến hầu cơm, bà dụ rằng: " Hoàng đế hầu cơm, đi bằng đầu gối, dâng đũa chính tay điều hòa nước canh, vui vẻ dâng chén, nhất nhất đều tuân theo chí của người trước, tình lễ thực là đầy đủ cả". Vua giơ tay lên trán mà lạy tạ.
Bà thường dạo chơi vường Thường Mậu, lên lầu Ký Ân, xa có thể trông thấy ruộng tịch điền. Rồi bà quay qua Thiệu Trị mà nói câu đại ý: Đức Thánh Tổ Nhân hoàng đế (tức Minh Mạng) quả là người cha yêu con. Khi xây dựng lầu này, cốt là sợ cái sự xa hoa mà làm hư mất Hoàng đế (chỉ Thiệu Trị), không biết lo cho dân, thương nhà nông. Xây dựng lầu này trước cung của Hoàng đế, cốt là nhắc nhở cái ruộng tịch điền còn đó, biết cái khó nhọc của muôn dân; đừng có mà bắt chước xây vườn tược, cung điện, thực không phải là chí của người trước vậy.
Năm 1843, nhân trong cung có việc tôt là Ngũ Đại Đồng đường việc hiếm thấy xưa nay, nên vua Thiệu Trị dân kim sách tấn tôn là Thánh Tổ Mẫu Nhân Tuyên Từ Khánh Phúc Thị Khang Ninh Thái Hoàng Thái Hậu (聖祖母仁宣慈慶福壽康寧太皇太后).
Năm 1844, bà đến chơi vườn Cơ Hạ. Thiệu Trị quỳ đón ở cửa vườn, đi trước dẫn đường, theo sau là võng chở bà đi thưởng ngoạn. Khi coi ao Minh Giám, thấy cá làm sóng gợn, câu được nhiều cá tốt, bà lại dụ rằng: Cá ở ao không lo chài lưới, đầm ruộng cũng chẳng hơn thế. Xưa kia Chiêu Liệt nhà Thục Hán đối với Gia Cát Vũ hầu lấy cá nước tương đắc với nhau mà làm câu ví, thực là câu nói hay. Vả đạo nhân quân làm chính trị, cốt nên thân người hiền xa kẻ gian, răn xa xỉ, chuộng tiết kiệm, Hoàng đế nhớ kỹ mà làm.
Tháng 8 năm 1846, bà mất, hưởng thọ 79 tuổi, quan tài để ở cung Từ Thọ. Tháng 11, vua Thiệu Tri dâng tôn hiệu là Thuận Thiên Hưng Thánh Quang Dũ Hóa Cơ Nhân Tuyên Từ Khánh Đức Trạch Nguyên Công Cao Hoàng hậu (順天興聖光裕化基仁宣慈慶德澤元功高皇后).
Tháng 12, ngày Canh Thân, táng ở bên hữu lăng Thiên Thọ (thuộc núi Thuận Sơn, huyện Hương Trà).
Con[sửa | sửa mã nguồn]
Bà sinh được ba người con trai:
- Nguyễn Phúc Đảm (Minh Mạng)
- Kiến An Vương Nguyễn Phúc Đài
- Hoàng tử tên Hiệu, mất sớm
- Thiệu Hóa Quận Vương Nguyễn Phúc Chuẩn
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Đại Nam liệt truyện, tập 2, Chính biên-Sơ tập
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
Thuận Thiên (hoàng phi)
|
||
Tước hiệu | ||
---|---|---|
Tiền vị: Thừa Thiên Cao hoàng hậu |
Hoàng hậu Việt Nam Truy phong |
Kế vị Tá Thiên Nhân hoàng hậu |