Tìm lại dấu tích chùa Quốc Ân Khải Tường
Nguyễn Thiện Đức
Chùa Khải Tường là một bài học sâu sắc về độc lập, tự chủ, bởi lẽ khi độc lập tự chủ của đất nước không còn thì tất cả giá trị văn hóa vật thể hay tâm linh của dân tộc sẽ bị tàn phá thê thảm dưới gót giày quân xâm lược.
143 năm (1802-1945) trong vai trò lãnh đạo đất nước. Vương triều Nguyễn để lại dấu ấn trong nhiều lĩnh vực, trong đó có văn hóa Phật giáo. Các vị hoàng đế nhà Nguyễn đã sắc tứ cho nhiều chùa, khắp mọi miền Tố quốc, và đặc biệt đã ngự chế một số ngôi quốc tự mà hầu như tập trung kinh đô Huế, một ngôi ở Ngũ Hành Sơn, miền Nam duy nhất có ngôi chùa Quốc Ân Khải Tường là ở Gia Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh).
Theo Đại Nam thực lục chính biên (Đệ nhị kỷ – Quyển LXXXIII- Thực lục về Thánh tổ Nhân hoàng đế), thấy viết rõ về việc dựng chùa Khải Tường như sau:
“Trước đây, vua bảo Bộ Lễ; Cố cung chỗ sinh Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta tại xá Dương Xuân, từ khi trải qua binh biến mất cả di chỉ. Sau khi cả nước đã yên, tìm hỏi không ra, mỗi khi nghĩ đến thương cảm không nguôi! Nhân đó nghĩ đến chỗ sinh ta ở nhà cũ của Tổng Quốc công phu nhân tại ngoại thành Gia Định, vậy sai quan địa phương tìm hỏi xem”.
Đến đây tháng 9 năm Nhâm Thìn-1832), quan thành Gia Đình tìm hỏi được di chỉ ở lân Tân Lộc, vẽ địa đồ dâng lên.
Vua dụ rằng: “Lân Tân Lộc ở phía hữu thành Gia Định, khi trước, hoàng thái hậu ta đi theo Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta vào Nam, từng đóng lại ở nơi ấy. Thực là hợp với điềm tốt: “Cầu vòng trôi ở bến hoa” nghĩ đến đất quý phát phúc càng nên giữ mãi dấu tích, để khuyên khích sau này. Vậy nên xây dựng ngôi chùa ở ngay chỗ đất ấy, gọi là chùa Khải Tường để ghi sự tốt lành to tát chứng tỏ nơi phát phúc lâu dài”.
Vua bèn sai lấy của kho 300 lạng bạc, giao quan địa phương, theo cách thức đã định của Bộ Công, gọi thợ xây dựng. Lại sai mộ các sư đến ở, hơn là 20 người. Các lễ tiết hàng năm, có ruộng tự điền được đặt để sung cấp (Phàm tiết Thánh thọ, tiết Vạn thọ và các lễ ngày Trừ tịch trồng cây nêu, Tết Nguyên đán, Tết Đoan dương, tiết Tam nguyên, ngày sóc, ngày vọng đều dâng cúng đồ chay và hương nến”.
Từ đó, chúng ta có thể rút ra một số thông tin sau về chùa Khải Tường qua chính sử của triều Nguyễn.
- Là một ngôi quốc tự tại thành Gia Định, được dựng lên từ chủ ý của hoàng đế, tài lực và nhân lực của triều đình.
- Được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 12-1832.
- Ở vị trí lân Tân Lộc, phía hữu thành Gia Định.
Qua đó, ta có thể biết chùa Khải Tường không thể có niên đại trước năm 1832 và những tượng thờ-đặc biệt là tượng “Ông Phật lớn”không thể có vào thời Gia Long như nhiều sách đã viết. Điều này phù hợp với Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đưc, trong tác phẩm này của ông không hề nói đến chùa Khải Tường cũng như việc triều đình ban tặng tượng cho chùa vì ông mất năm 1825. Bảy năm sau chùa mới được dựng.
Sau đây, là một số ý kiến về vị trí của chùa Khải Tường: Từ Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Giáo sư Trần Văn Giàu chủ biên, hình 24 trang 184, hình 25 trang 229, trang 166 và trang 211 cho chúng ta nhận xét về vị trí chùa Khải Tường như sau:
- Nếu ở vị trí Bảo tàng Chứng tích chiến tranh hay Trường Lê Quý Đôn thì nơi đó:
– Nằm rất gần hào của thành Gia Định. Như vậy, nhà của Tống quốc công phu nhân (mẹ vợ vua) lại nằm sát hào thành là một điều vô lý. Mặt khác, thành Gia Định (thành Quy) được xây dựng từ năm 1790 mà hoàng tử Đảm được sinh năm 1791, ở ngoài thành, gần hào thành-nơi dễ xảy ra chiến đấu, chẳng lẽ một người khôn khéo như vua Gia Long lại để vợ và con mình ở nơi “đầu sóng ngọn gió”là điều thứ hai vô lý.
Bên phải, phía sau ngoại thành Gia Định. Điều này không đúng với vị trí trong Đại Nam thực lục đã xác nhận. (Lúc đầu vua Minh Mệnh không nhớ rõ nên nói là ngoại thành Gia Định nhưng sau khi quan địa phương xác định được di chỉ vua đã khẳng định như đoạn trích dẫn bên trên là phía hữu thành Gia Định).
- Nếu ở vị trí chợ Đũi thì:
– Chợ Đũi không thuộc lân Tân Lộc như Đại Nam thực lục đã viết,
– Sau khi dẹp xong loạn Lê Văn Khôi, tàn quân phiến loạn hơn một ngàn người bị xử trảm chôn chung trong một ngôi mộ gọi là Mả ngụy-vị trí ở gần chợ Đũi. Không thể nào, vua Minh Mệnh lại đem chôn kẻ thù-“nghịch tặc”với mình ở gần nơi phúc địa thiêng liêng mà mình được sinh ra.
Như vậy, chùa Khải Tường có thể phía hữu trong thành Gia Định (thành Quy).
– Trong sách Tỉnh thành xưa ở Việt Nam (Nhà Xuất bản Hải Phòng và Trung tâm Văn hóa Đông Tây – nhiều tác giả, Lưu Đình Toàn dịch, 2003) trang 111, bài Hình ảnh xưa của Sài Gòn, do ông Louis Malleret cho biết”…con đường mà sau này chúng ta đặt tên là Catinat, trên đó có một ngôi chùa”. Ở trang 107 của sách này có in ảnh của ngôi chùa đó và chú thích là “pagoda et cases annamites, dans la rue Catinat, à Saigon, en 1864”.- Một ngôi chùa Việt Nam trên đường Catinat ở Sài Gòn năm 1864. Ở trang 113, “trên đường đi về Sài Gòn, phía sau bãi sau này xây trường Chasseloup Laubat, người ta thấy chùa Khải Tường”. Và cũng sách này ở Nhà thờ Sài gòn có đoạn: “Trước khi có nhà thờ (Nhà thờ Sài Gòn-NTĐ), Đức Cha Lefèbre rời bỏ Xem-chieu (Xom Chiếu?-LĐT) về thành phố trong một căn nhà rất đẹp của một viên quan An Nam bỏ đi khi người Pháp tới-ngôi nhà này sau trở thành một ngôi nhà thờ nhỏ của Tòa Giám mục ở số 180 phố Richaud. Cha Lefèbre được chính quyền Pháp cho một ngôi chùa cũ để làm nhà thờ đầu tiên của thành phố. Nhà thờ và nhà của Cha phụ trách phải được xây gần phố mang tên Nhà thờ…”.
– Trong Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, trang 198 viết: “Năm Kỷ Tỵ (1809)…tổng trấn Nguyễn Văn Nhơn, Trịnh Hoài Đức khâm mạng xây cất tòa Vọng cung ở trước sân trong thành… Hai bên tả hữu xây hai lầu bát giác treo trống chuông, kế theo đó dựng Hành cung… Sau hành cung làm công thự Tổng trấn, phía hữu làm công thự Hiệp tổng trấn, phía tả làm công thự Phó tổng trấn”. Đối chiếu với hình đã dẫn trong sách này ở trang 184, ta có thể xác định công thự Hiệp tổng trấn nằm khoảng từ phố Hàn Thuyên đến Nguyễn Du ngày nay. Sau này, phá thành Quy xây thành Phụng thì khu vực này tuy nằm ngoài thành (Phụng) nhưng những tòa nhà đó vẫn được giữ lại vị trí cũ làm công thự vì thành mới chỉ có các lỵ sở mà thôi.
Từ những thông tin trên, chúng ta có một giả thuyết: Phải chăng chùa Khải Tường ngày xưa của thành Gia Định ở vị trí nhà thờ Đức Bà ngày nay?
Khi tôi tìm hiểu về vị trí cũng như lịch sử chùa Khải Tường không phải vì tôi muốn tạo một tiền đề dữ liệu để phục dựng chùa Khải Tường hay một ý đồ tương tự, mà điều tôi muốn là phục dựng trong lòng người dân thành phố nói riêng người dân Việt Nam nói chung một ngôi chùa Khải Tường trong ký ức. Chùa Khải Tường là một bài học sâu sắc về độc lập, tự chủ, bởi lẽ khi độc lập tự chủ của đất nước không còn thì tất cả giá trị văn hóa vật thể hay tâm linh của dân tộc sẽ bị tàn phá thê thảm dưới gót giày quân xâm lược. Chúng – quân xâm lược và bè lũ tay sai sẽ thay vào những nơi thiêng liêng của ta bằng những tượng đài tâm linh của chúng bất chấp thủ đoạn và máu để phô trương sự thống trị.■
Tài liệu tham khảo:
- Đại Nam thực lục chính biên: Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện sử học, Nhà Xuất bản Giáo Dục , 2003.
- Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Giáo sư Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Lê Trung Khá, Võ Sĩ Khải, Nguyễn Đình Đầu, Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1987.
- Tình thành xưa ở Việt Nam, nhiều tác giả, Lưu Đình Tuân dịch, Nhà Xuất bản Hải Phòng-Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2003.
- Tản mạn Phú Xuân 2 – Cao Sơn lưu thủy ngộ tri âm, Trần Đình Sơn, Nhà Xuất bản Văn Nghệ, 2006.
Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 74
Category: Di sản, Nguyễn Thiện Đức