Dương Thị Thục

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Dương Thị Thục
楊氏淑
Hoàng hậu nhà Nguyễn
Tại vị Truy phong
Tiền nhiệm Phụ Thiên Thuần hoàng hậu
Kế nhiệm Nam Phương hoàng hậu
Hoàng thái hậu nhà Nguyễn
Tại vị 1923 - 1933
Tiền nhiệm Khôn Nguyên hoàng thái hậu
Kế nhiệm Đoan Huy hoàng thái hậu
Thái hoàng thái hậu nhà Nguyễn
Tại vị 1933 - 1944
Tiền nhiệm Khôn Nguyên thái hoàng thái hậu
Kế nhiệm Không có
Thái hoàng thái hậu cuối cùng của Việt Nam
Thông tin chung
Phu quân Nguyễn Cảnh Tông
Đồng Khánh hoàng đế
Hậu duệ Nguyễn Phúc Bửu Đảo
Nguyễn Phúc Bửu Cát
Tước hiệu Thị thiếp
Hòa tần
Tiệp dư
Hoàng thái phi
Hoàng thái hậu
Thái hoàng thái hậu
Thụy hiệu Hựu Thiên Tương Thánh Khôn Nghi Xương Đức Khoan Hậu Từ Hòa Thọ Khang Trang Túc Thuần hoàng hậu
佑天襄聖坤儀昌德寬厚慈和壽康莊肅純皇后
Hoàng tộc Nhà Nguyễn
Thân phụ Dương Quang Hướng
Sinh 1868
Phú Lộc, Thừa Thiên
Mất 1944
Phú Xuân, Đại Nam
An táng lăng Vạn Vạn

Dương Thị Thục (chữ Hán: 楊氏淑, 18 tháng 4, 1868 - 17 tháng 9, 1944), còn gọi là Hựu Thiên Thuần hoàng hậu (佑天純皇后), là hoàng hậu thứ 2 của hoàng đế Đồng Khánh nhà Nguyễn, mẹ của hoàng đế Khải Định và là bà nội ruột của hoàng đế Bảo Đại.

Sử sách và ghi chép thường gọi bà là Tiên Cung (仙恭).

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Dương thị người huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên, con gái của Phú Lộc quận công Dương Quang Hướng.

Khi đến tuổi trưởng thành, bà được chọn là thứ thiếp cho hoàng tử Nguyễn Phúc Ưng Đàng, được gọi là hoàng tử Chánh Mông (正蒙), khi vị hoàng tử này được dạy dỗ trưởng thành ở Chánh Mông đường (正蒙堂).

Năm 1885, Ưng Đàng lên kế vị, tức hoàng đế Đồng Khánh, Dương thị được phong tước Hòa tần (和嬪). Bà sinh được 2 người con trai là Nguyễn Phúc Bửu Đảo và Nguyễn Phúc Bửu Cát, nhưng chỉ có Bửu Đảo còn sống đến tuổi trưởng thành, đồng thời cũng là con trưởng của Đồng Khánh đế. Vì là mẹ đẻ của hoàng tử trưởng, dù chỉ là thân phận phi thiếp nhưng bà vẫn được tôn quý không kém gì Hoàng quý phi Nguyễn Hữu thị.

Năm 1889, Đồng Khánh mất khi chỉ mới 24 tuổi. Con trai bà là Bửu Đảo còn quá nhỏ tuổi, triều đình Huế thông qua ý định của Toàn quyền Pierre Paul Rheinart, đưa con trai của vua Dục Đức là Nguyễn Phúc Bửu Lân lên kế vị, tức hoàng đế Thành Thái. Mất đi địa vị, bà bị giáng xuống làm Tiệp dư (婕妤), con trai bà lớn lên với tước vị Phụng Hóa công (奉化公).

Năm 1916, sau nhiều chính biến khiến vua Thành Thái bị phế, vua Duy Tân bị lưu đày, Phụng Hóa công Bửu Đảo được kế thừa ngôi vị, tức hoàng đế Khải Định, Dương tiệp dư được sách phong Hoàng thái phi (皇太妃).

Năm 1923, chính thức sách phong làm Khôn Nghi hoàng thái hậu (坤儀皇太后), cùng năm đó Hoàng quý phi Nguyễn Hữu thị cũng được đồng sắc phong làm Khôn Nguyên hoàng thái hậu (坤元皇太后). Vì để phân biệt thứ bậc, người ta bắt đầu gọi bà Khôn Nguyên là đức Thánh Cung, còn Khôn Nghi là đức Tiên Cung.

Năm 1933, hoàng đế Bảo Đại tôn bà lên làm Khôn Nghi Xương Đức thái hoàng thái hậu (坤儀昌德太皇太后).

Năm 1944, Thái hoàng thái hậu qua đời, thọ 77 tuổi. Lăng của bà được gọi là lăng Tiên Cung, tọa lạc ở làng An Cựu, Hương Thủy, Thừa Thiên. Dân chúng trong vùng quen gọi là lăng Vạn Vạn.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Dương Thị Thục
Tước hiệu
Tiền vị:
Phụ Thiên Thuần hoàng hậu
Hoàng hậu Việt Nam
Truy phong
Kế vị
Nam Phương hoàng hậu