Dương Thị Thục
Dương Thị Thục 楊氏淑 |
|
---|---|
Hoàng hậu nhà Nguyễn | |
Tại vị | Truy phong |
Tiền nhiệm | Phụ Thiên Thuần hoàng hậu |
Kế nhiệm | Nam Phương hoàng hậu |
Hoàng thái hậu nhà Nguyễn | |
Tại vị | 1923 - 1933 |
Tiền nhiệm | Khôn Nguyên hoàng thái hậu |
Kế nhiệm | Đoan Huy hoàng thái hậu |
Thái hoàng thái hậu nhà Nguyễn | |
Tại vị | 1933 - 1944 |
Tiền nhiệm | Khôn Nguyên thái hoàng thái hậu |
Kế nhiệm | Không có Thái hoàng thái hậu cuối cùng của Việt Nam |
Thông tin chung | |
Phu quân | Nguyễn Cảnh Tông Đồng Khánh hoàng đế |
Hậu duệ | Nguyễn Phúc Bửu Đảo Nguyễn Phúc Bửu Cát |
Tước hiệu | Thị thiếp Hòa tần Tiệp dư Hoàng thái phi Hoàng thái hậu Thái hoàng thái hậu |
Thụy hiệu | Hựu Thiên Tương Thánh Khôn Nghi Xương Đức Khoan Hậu Từ Hòa Thọ Khang Trang Túc Thuần hoàng hậu 佑天襄聖坤儀昌德寬厚慈和壽康莊肅純皇后 |
Hoàng tộc | Nhà Nguyễn |
Thân phụ | Dương Quang Hướng |
Sinh | 1868 Phú Lộc, Thừa Thiên |
Mất | 1944 Phú Xuân, Đại Nam |
An táng | lăng Vạn Vạn |
Dương Thị Thục (chữ Hán: 楊氏淑, 18 tháng 4, 1868 - 17 tháng 9, 1944), còn gọi là Hựu Thiên Thuần hoàng hậu (佑天純皇后), là hoàng hậu thứ 2 của hoàng đế Đồng Khánh nhà Nguyễn, mẹ của hoàng đế Khải Định và là bà nội ruột của hoàng đế Bảo Đại.
Sử sách và ghi chép thường gọi bà là Tiên Cung (仙恭).
Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]
Dương thị người huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên, con gái của Phú Lộc quận công Dương Quang Hướng.
Khi đến tuổi trưởng thành, bà được chọn là thứ thiếp cho hoàng tử Nguyễn Phúc Ưng Đàng, được gọi là hoàng tử Chánh Mông (正蒙), khi vị hoàng tử này được dạy dỗ trưởng thành ở Chánh Mông đường (正蒙堂).
Năm 1885, Ưng Đàng lên kế vị, tức hoàng đế Đồng Khánh, Dương thị được phong tước Hòa tần (和嬪). Bà sinh được 2 người con trai là Nguyễn Phúc Bửu Đảo và Nguyễn Phúc Bửu Cát, nhưng chỉ có Bửu Đảo còn sống đến tuổi trưởng thành, đồng thời cũng là con trưởng của Đồng Khánh đế. Vì là mẹ đẻ của hoàng tử trưởng, dù chỉ là thân phận phi thiếp nhưng bà vẫn được tôn quý không kém gì Hoàng quý phi Nguyễn Hữu thị.
Năm 1889, Đồng Khánh mất khi chỉ mới 24 tuổi. Con trai bà là Bửu Đảo còn quá nhỏ tuổi, triều đình Huế thông qua ý định của Toàn quyền Pierre Paul Rheinart, đưa con trai của vua Dục Đức là Nguyễn Phúc Bửu Lân lên kế vị, tức hoàng đế Thành Thái. Mất đi địa vị, bà bị giáng xuống làm Tiệp dư (婕妤), con trai bà lớn lên với tước vị Phụng Hóa công (奉化公).
Năm 1916, sau nhiều chính biến khiến vua Thành Thái bị phế, vua Duy Tân bị lưu đày, Phụng Hóa công Bửu Đảo được kế thừa ngôi vị, tức hoàng đế Khải Định, Dương tiệp dư được sách phong Hoàng thái phi (皇太妃).
Năm 1923, chính thức sách phong làm Khôn Nghi hoàng thái hậu (坤儀皇太后), cùng năm đó Hoàng quý phi Nguyễn Hữu thị cũng được đồng sắc phong làm Khôn Nguyên hoàng thái hậu (坤元皇太后). Vì để phân biệt thứ bậc, người ta bắt đầu gọi bà Khôn Nguyên là đức Thánh Cung, còn Khôn Nghi là đức Tiên Cung.
Năm 1933, hoàng đế Bảo Đại tôn bà lên làm Khôn Nghi Xương Đức thái hoàng thái hậu (坤儀昌德太皇太后).
Năm 1944, Thái hoàng thái hậu qua đời, thọ 77 tuổi. Lăng của bà được gọi là lăng Tiên Cung, tọa lạc ở làng An Cựu, Hương Thủy, Thừa Thiên. Dân chúng trong vùng quen gọi là lăng Vạn Vạn.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Truyện kể về các Vương phi, Hoàng hậu nhà Nguyễn - Thi Long, NXB Đà Nẵng.
- Đại Nam liệt truyện
Dương Thị Thục
|
||
Tước hiệu | ||
---|---|---|
Tiền vị: Phụ Thiên Thuần hoàng hậu |
Hoàng hậu Việt Nam Truy phong |
Kế vị Nam Phương hoàng hậu |