. Mặc dù được coi là người có công lấy lại ngôi báu từ tay của Dương Nhật Lễ nhưng với tính cách nhu nhược và thiếu bản lĩnh, vua Trần Nghệ Tông đã để quyền lực triều chính dần rơi vào tay của Hồ Quý Ly, biên cương bờ cõi bị Chăm-pa quấy phá, kinh đô Thăng Long nhiều lần rơi vào tay giặc. Do đó, ông là người phải gánh vác trách nhiệm về sự suy yếu dẫn đến sự diệt vong của triều đại nhà Trần.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Giáp Tuất (1394) năm (Quang Thái) thứ 7,…Tháng 12, ngày 15, Thượng hoàng băng, táng tại Nguyên lăng Yên Sinh, miếu hiệulà Nghệ Tông, thụy là Quang Ng- hiêu Anh Triết Hoàng đế”.
Trần triều bi ký chép: “Nghệ Tông Hoàng đế, mất ngày 15 tháng 12 năm Kỷ Dậu,táng tại lăng xứ Đồng Hỷ, tục gọi là Chiêu lăng”40.
Sách Đại Nam nhất thống chí đã có một số nhầm lẫn khi cho rằng “lăng ĐồngHy(Hỷ): lăng Trần Nghệ Tông và Trần Thuận Tông, ở núi Ngọc Thanh xã ĐạmThủy, huyện Đông Triều”. Sở dĩ có sự nhầm lẫn này là bởi năm 1377 vua Trần Nghệ Tông có cho xây dựng tại núi Ngọc Thanh một khu lăng nhưng lăng đó không phải là lăng tẩm của ông mà là để chiêu hồn vua Trần Duệ Tông - người đã bị tử trận tại thành Đồ Bàn (Vijaya) khi đem quân đi đánh Chăm-pa. Trong khi cho rằng lăng ở núi Ngọc Thanh là lăng của vua Trần Nghệ Tông, Đại Nam nhấtthống chí lại hoàn toàn không nhắc đến vua Trần Duệ Tông. Cũng chính sự nhầm lẫn của Đại Nam nhất thống chí này mà có nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng Hy lăng ở Núi Ngọc Thanh là lăng vua Trần Nghệ Tông. Vậy sự thật như thế nào?
Sách Trần triều thánh tổ các xứ địa đồ cho biết Nguyên lăng ở xã Đốc Trại, tổng Mễ Sơn, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Năm Minh Mạng thứ 21 (1840) vua Minh Mạng đã cho dựng bia ghi nhớ vị trí lăng tẩm của các vua nhà Trần tại An Sinh, trong đó có Nguyên lăng. Nội dung của bia cũng được ghi lại trong sách Trần Triều thánh tổ các xứ địa đồ “Minh Mạng nhị thập nhất niên, cửu nguyệt, sơ lục nhật phụng sắc tạo, Nghệ Tông hoàng đế lăng”. Nghĩa là: Ngày mồng 6 tháng 9 năm Minh Mệnh thứ 21 (1840), phụng sắc tạo (bia) lăng hoàng đế Nghệ Tông 41.
Tại khu vực xã Đốc Trại xưa, nay thuộc xã An Sinh, trong khu vực Khe Nghệ thôn Bãi Dài, xã An Sinh có dấu tích lăng. Tại đây còn lại dấu vết tấm bia đá dựng năm Minh Mạng thứ 21 (1840) đã được sách Trần triều thánh tổ các xứ địa đồ ghi chép lại. Điều đó chứng minh, Nguyên lăng – lăng của vua Trần Nghệ Tông được xây dựng tại địa điểm nay thuộc khu Khe Nghệ, thôn Bãi Dài, xã An Sinh, huyện Đông Triều, Quảng Ninh.
Qua mô tả của người dân về việc đào phá lăng trước đây cộng với những dấu vết còn lại khi khai quật cho phép suy đoán, cấu trúc hầm mộ của Nguyên lăng giống như cấu trúc hầm mộ đã phát hiện tại mộ Nghĩa Hưng (An Sinh), tức là quan tài được đặt trong hai lớp quách hình cũi, quách được xếp bằng các khúc gỗ nguyên khối, được bao phủ bằng các loại hợp chất nhẹ, có mùi thơm, đốt cháy, ngoài cùng được phủ bằng một lớp than củi và vôi bột dày trung bình 50- 60cm, giữa hai lớp quách cũng được đổ đầy các loại hợp chất nhằm tạo môi trường vô sinh trong hầm mộ vừa để bảo vệ di cốt vừa để bảo vệ quan quách.
Dấu vết còn lại ở trên mặt lăng cho thấy, lăng có cấu trúc hết sức đơn giản, không có Thần đạo quy mô như ở Thái lăng hay lăng Tư Phúc; sân Hành lễ hết sức đơn giản và đặc biệt là khu Tẩm điện chỉ gồm một kiến trúc nhỏ có vai trò như là Chính Tẩm. Dấu vết còn lại cho thấy Chính Tẩm có mặt bằng hình vuông (7,70x7,70m), mái lợp ngói mũi sen.
Việc Nguyên lăng có quy mô nhỏ, kiến trúc đơn giản hơn rất nhiều so với lăng của các vua Trần khác là việc có thể lý giải được bởi: trong số các lăng xây dựng ở An Sinh thì Nguyên lăng là lăng cuối cùng của nhà Trần được xây dựng (1394). Lăng được xây dựng trong bối cảnh triều chính nhà Trần đã đạt đến đỉnh điểm của sự suy thoái, quyền lực hầu như đã nằm trong tay của Hồ Quý Ly, trong khi xã hội thì rối loạn, giặc giã thì ngấp nghé bờ cõi; kinh tế cũng rơi đến đáy của sự suy thoái, vv... Nói cách khác, mọi nguồn lực cho việc xây dựng lăng tẩm đều đã cạn kiệt. Có lẽ vì những lý do đó mà khi dời thần vị của các vua từ Tam Đường về An Sinh ông chỉ cho xây dựng lăng Tư Phúc để thờ chung các vị tiên đế thay vì xây cho mỗi vị một lăng tẩm riêng biệt. Còn đối với riêng mình, ông cũng đã không đòi hỏi phải xây dựng lăng tẩm của mình một cách quy mô, lộng lẫy như các vua trước.
Nguồn tin: Sưu tầm
Những tin cũ hơn
(Theo QuangNinh.online): Theo duy danh định nghĩa thì Đông Triều có nghĩa là "triều đình phía đông", An Sinh vốn là quê gốc của nhà Trần. Đây là một trong những vùng ẩn tích chứa nhiều các di sản văn hoá đặc sắc của thời Lý- Trần Vị trí các di tích nhà...