Trương văn Thanh & Trần Ngọc Bảo
Đến địa phận
làng Lương Quán,
sông Hương "ôm
cua" gần như 90
độ, khiến bên
Lương Quán bờ
sông được bồi
một đoạn gần cả
100m - tha hồ để
trồng trọt, nhất
là bắp. C̣n bên
kia sông là làng
Long Hồ th́ bị
lở.
Băi bồi Lương Quán
Bờ sông làng Long Hồ
Kế đến là làng
Ngọc Hồ. Qua một
khúc quanh nữa
thuộc làng Hải
Cát, thuyền bắt
đầu đi vào vùng
linh địa của xứ
Huế (theo thuật
phong thủy).
Cũng phía bên
phải bắt đầu
xuất hiện núi
Ngọc Trản với
Ngọc Trản Sơn Tự
mà sau này vua
Đồng Khánh đổi
tên thành Huệ
Nam điện, c̣n
dân gian th́ gọi
là điện Ḥn Chén.
Đây là nơi người
Chàm đă dựng đền
thờ nữ thần Po
Nagar (mẹ xứ sở),
là vị thần đă
sinh ra đất cho
chúng ta ở. Cả vua Đồng Khánh cũng tin tưởng và nhận làm em bà chúa. Sau khi vua băng hà, nhà vua cũng được thờ ở đây.
Năm 1954, người
ta mang mẫu Liễu
Hạnh c̣n gọi là
Vân Hương thánh
mẫu ngoài Bắc
vào thờ, cùng
với các mẫu
thượng ngàn, mẫu
thủy phủ, v.v.
và h́nh thành
một tín ngưỡng
mới gọi là Thiên
Tiên Thánh Giáo.
Hằng năm dân
chúng, nhất là
những người sinh
sống, làm nghề
trên sông nước
và trong rừng,
tụ hội về đây
cúng tế. Lễ hội
được tiến hành
trên sông lẫn cả
trên bộ (đưa
ngài đến đ́nh
làng Hải Cát rồi
rước về) vào
tháng ba và
tháng bảy âm
lịch.
Minh Kinh Đài thờ nhiều vị thần thánh theo tín ngưỡng dân gian, Đức Phật và cả Quan Công, vị thần của người Hoa.
Bờ bên trái là
đồi Vọng Cảnh.
Cách đồi Vọng
Cảnh không xa là
lăng vua Tự Đức,
Đồng Khánh,
Thiệu Trị, lăng
các bà hoàng hậu
như lăng Hiếu
Đông (Tá Thiên
Nhân Hoàng Hậu,
vợ vua Minh Mạng),
lăng bà Từ Dụ (chính
cung của vua
Thiệu Trị, mẹ
vua Tự Đức),
lăng Khải Định.
Cả khu vực này được gọi là Vạn Niên Cát Cục, nghĩa là khu đất tốt lành trong cả vạn năm. Đây là vùng đất để an táng các bậc vua chúa, quan lại hay dân thường không được phép chôn ở đây. Nhưng trên thực tế th́ "cát cục" cũng không hề tốt lắm hay tốt tới vạn năm. Các vua chúa cũng đều nếm mùi thăng trầm, đau khổ chẳng kém lũ dân đen.
Lăng Tự Đức do
vậy được gọi là
Vạn Niên Cơ,
nhưng do những
người xây lăng
bị thúc ép làm
việc vất vả đă
nổi dậy, dưới sự
lănh đạo của
Đoàn Hữu Trưng,
Đoàn Hữu Trục,
đă đột nhập cung
điện toan giết
vua. Trong sách
sử, vụ nổi dậy
này được gọi là
"giặc chày vôi"
do những người
này trang bị vũ
khí bằng nhiều
chày giă vôi,
một loại vật
liệu xây dựng.
Vua Tự Đức sau
này đă tự "kiểm
điểm" và đổi tên
lăng thành Khiêm
Cung hay Khiêm
Lăng.
Nhà máy bơm nước Vạn Niên do người Pháp đă xây vào năm 1909 dưới chân đồi Vọng Cảnh. Kiến trúc sư Bossard đă tham khảo các công tŕnh xung quanh để thiết kế nhà máy giống như một lăng tẩm để hài ḥa với vạn niên cát địa.
Từ trên sông có
thể nh́n thấy
lăng Cơ Thánh
thuộc làng Cư
Chánh, phường
Thủy Bằng, thị
xă Hương Thủy.
Lăng này c̣n gọi
là lăng Cao
Hoàng hay lăng
Sọ, là lăng của
Nguyễn Phúc Luân
(c̣n gọi là
Nguyễn Phúc Côn,
cha của Nguyễn
Phúc Ánh, tức
vua Gia Long).
Ngài là con của
chúa Nguyễn Phúc
Khoát, được chọn
để nối ngôi chúa,
nhưng ông cậu là
Trương Phúc Loan
âm mưu giả chiếu
chỉ để đưa
Nguyễn Phúc
Thuần, lúc ấy
mới 12 tuổi lên
làm chúa. Nguyễn
Phúc Côn buồn
rầu sinh bệnh
mất vào năm
1765. Năm 1790
lăng mộ của
Nguyễn Phúc Côn
bị nhà Tây Sơn (Quang
Trung) đào lên
và vứt hài cốt
xuống sông Hương.
Có một người địa
phương lén vớt
được sọ và chôn
lại. Sau khi vua
Gia Long lên
ngôi, người này
tŕnh báo và vua
đă cho vớt cát
sỏi một đoạn
sông đắp lên bờ
và lập lăng cho
ngôi mộ sọ ấy.
Đoạn bờ sông này
ngày trước không
ai trồng trọt,
nhưng vài năm
gần đây đă có
trồng hoa màu.
Hiển Đức Môn,
cổng vào Sùng Ân
Điện là ngôi
điện thờ vua
Bi đ́nh, nơi có
tấm bia Thánh
Đức Thần Công
ghi hành trạng,
công lao của vua
Minh Mạng
Minh Lâu, nơi
nhà vua ngắm
trời đất để
chiêm nghiệm lẽ
đời
Bửu Thành, mộ
phần của vua
Minh Mạng Ngă ba Bằng Lăng, c̣n gọi là ngă ba Tuần, nơi hai ḍng Tả Trạch và Hữu Trạch hợp lại để thành ḍng sông Hương. Vùng đất giữa hai ḍng ḍng sông đó cũng là đất thiêng thuộc làng La Khê Trẹm, Kim Ngọc, Định Môn thuộc thị xă Hương Thủy. Nơi đây có lăng mộ của tất cả chín chúa Nguyễn và các bà hậu. Nhưng vào năm 1790 tất cả các lăng mộ ấy đều bị nhà Tây Sơn đào lên và vứt xác. Sau này vua Gia Long phải dùng gỗ dâu đẽo thành h́nh người và chôn thay cho thi thể (về sau các vua Tây Sơn cũng bị đối xử tàn nhẫn tương tự) . Nhưng tính chất thiêng liêng của vùng đất có lẽ được thể hiện trong sự nghiệp của các chúa trong ṿng 200 năm đă mở mang bờ cơi từ Qui Nhơn ở miền Trung cho đến trọn miền đất Nam bộ. Ngày nay, ngoài lăng Trường Cơ của chúa Nguyễn Hoàng, các lăng c̣n lại đă bị lăng quên và ở trong t́nh trạng hoang phế. Lăng vua Gia Long cũng ở làng Kim Ngọc, nơi đó c̣n có mộ của hai bà Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu, Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu và nhiều bà hậu của các chúa. Triều Nguyễn truyền ngôi được cho 13 vua trong ṿng gần 150 năm (1802-1945). Cho dù được chôn nơi cát địa và sống trong sự chúc tụng vạn tuế hoặc muôn năm, các vua cũng không sống lâu và đạt được mọi điều ước mong.
Vùng đất linh
địa này biểu
hiện rơ tính
chất vô thường
và khổ đau của
cuộc đời - ai ai
cũng chịu nhiều
đổi thay, đau
khổ mặc cho
những nỗ lực coi
ngày giờ để kết
hôn, an táng,
chọn đất đai để
xây dựng lăng
tẩm nguy nga
tráng lệ, mặc
cho tài sản lớn
lao, mặc cho bao
lời cầu nguyện,
chúc tụng, lễ
bái thánh thần.
Vô thường và khổ
đau mới thật là
những điều linh
thiêng, ứng
nghiệm đối với
tất cả mọi người.
Trương Văn
Thanh
|