Bia “Vĩnh Tế Sơn”
Một bảo vật quốc gia đang bị lãng
quên
H01 Lăng Thoại Ngọc Hầu dưới chân núi Sam khi chưa trùng tu.
Bia Vĩnh Tế Sơn hay còn
được gọi là “Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế Sơn bi ký” là một bài văn do Thoại Ngọc Hầu cho
ghi chép lại việc khai phá vùng đất Châu Đốc ngày nay, đồng thời ghi nhớ ơn vua
đã lấy tên phu nhân Châu Thị Tế đặt tên mới cho núi Sam là Vĩnh Tế Sơn.
Bia do Thoại Ngọc Hầu
Nguyễn văn Thoại soạn và cho người khắc vào năm Minh Mạng thứ 9 ( 1828) ; sau
khi việc đào kinh Vĩnh Tế hoàn thành (1819-1824) và con đường Châu Đốc Tân Lộ
Kiều Lương ( 1826-1827) cũng vừa được đắp xong. Bia được dựng nơi sơn lăng dưới
chân núi Sam, đối diện với Miếu Bà Chúa Xứ. Đây là nơi đã được chọn làm chốn
yên nghỉ của ông và hai vị phu nhân là Châu Thị Tế và Trương Thị Miệt.
Sau khi hoàn tất việc
đào kinh Vĩnh Tế , con lộ từ Châu Đốc đến chân núi Sam cũng được Thoại Ngọc Hầu
khẩn trương khởi công vào năm 1826 và hoàn tất vào năm 1827. Con lộ này có chiều
dài khoảng 5km, bề ngang hơn 5m chạy từ chân núi Sam đến nội ô Châu Đốc tên là
“Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương” . Sau khi con lộ được hoàn thành, ông đã cho dựng
tại chân núi Sam bia Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương. Tiếc thay tấm bia đã bị vỡ,
người ta chỉ tìm được vài mảnh của bia có ghi bốn chữ “ Châu Đốc Tân lộ…..” gần
lăng Thoại Ngọc Hầu (1). Sau đó, ông đã tiến hành xây dựng sơn lăng vào năm 1828 cho hai vị phu
nhân và cũng là nơi an nghỉ sau cùng của mình. Đây là tâm nguyện cuối đời của
ông vì khi đó ông đã ở gần tuổi thất thập cổ lai hy.
Cũng trong năm này, ông
cho soạn thảo bia “Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế Sơn” hay còn được gọi tắt
là bia Vĩnh Tế Sơn. Đây là một áng văn chương tuyệt tác ghi lại sự gian nan cực
khổ khi khai phá vùng đất này và việc đào kinh ; đồng thời cũng bày tỏ lòng tri
ơn nhà vua đã ban tên phu nhân Châu Thị Tế cho con kinh mới đào là Vĩnh
Tế Hà và núi Sam là Vĩnh Tế Sơn. Chữ
Vĩnh Tế được ghép từ tên của dòng họ Châu Vĩnh tại cù lao Dài ( nay thuộc huyện
Vũng Liêm , tỉnh Vĩnh Long) và tên Châu Thị Tế.
Mặc dầu ông không trực
tiếp đứng ra soạn văn bia này bởi vì người soạn bài văn là Võ Tam Hà vốn là một
cựu thần của nhà Lê đi theo ông với vai trò của một thư lại. Ngoài ra còn có người hỗ trợ cho việc soạn văn bia là Tô Giang
Nguyễn Chung Phủ. Tuy nhiên ông đứng vai trò giám sát và hiệu chỉnh lại việc soạn
văn bia.
Chất liệu của bia Vĩnh
Tế Sơn được cho rằng lấy từ đá hoa tại vùng núi phía Tây nước Chân Lạp. Các nghệ
nhân khắc bia được rước từ vùng Ngũ Hành Sơn là quê hương của ông . Vì vậy trên
bia này thể hiện từng đường nét chạm trổ hoa văn rất khéo léo. Bia có bề ngang
khoảng 0,96m , chiều dài là 1,65m chưa kể phần chân bia chôn dưới đất, dầy khoảng
0,2m, được chạm theo kiểu tam cấp với ba bậc lồng khung vào nhau. Trên đầu bia ở
bậc thứ nhất là hình “Lưỡng long tranh châu” uốn lượn trong đám mây, còn xung
quanh là hình hoa lá. Bậc thứ hai là dòng chữ “Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế Sơn bi
ký” khắc nổi, được bố trí theo hàng ngang từ phải sang trái. Xuống thêm một bậc
nữa mới đến bài văn bia được sắp xếp theo hàng dọc với độ dài ngắn khác nhau.
Việc trình bày văn bia này tuân thủ theo qui định của triều Nguyễn là những chữ
quan trọng và có dính đến vua chúa như chữ Hoàng (皇), chữ Thánh (聖), chữ
Ngọc (玉)… phải được mang lên đầu cột. Những chữ này được gọi là chữ “ Đài”.
H02. Bia Vĩnh Tế Sơn nằm ở mặt sau vách trước lăng.
Những năm 60 của thế kỷ 20, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu trong công
trình nghiên cứu về Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá vùng đất Hậu Giang đã
tìm đến sơn lăng Thoại Ngọc Hầu dưới chân núi Sam để chụp hình và ghi lại những
chữ trên văn bia Vĩnh Tế Sơn, nhưng những nét chữ trên bia đã mờ không còn đọc
được. Nguyên nhân do cấu tạo của bia bằng đá mềm để dễ chạm khắc chứ không cứng
như bia Thoại Sơn làm từ đá hoa cương tại núi Sập (Thoại Sơn). Qua một thời
gian dài không ai quan tâm,
bị vùi dập dưới đất nên bia bị nước mưa xâm thực nặng. Nền bia bị loang lỗ, nét
chữ bị mờ chỉ còn đọc được một số chữ .
Không nãn lòng, ông tìm trong các thư viện trong và ngoài nước nhưng
vẫn không tìm ra văn bản này. Cuối cùng, nhờ cơ duyên nên ông tìm được văn bản
chép tay bài văn bia Vĩnh Tế Sơn tại nhà
Tú Tài Trần Hữu Thường ở Tân Châu ( nay là xã Thường Phước thuộc huyện Hồng
Ngự, tỉnh Đồng Tháp).
Khi nghiên cứu những công trình của Thoại Ngọc Hầu, tôi đã đến sơn lăng
chụp lại những dòng chữ trên bia Vĩnh Tế Sơn và hiệu chỉnh lại một vài số liệu
mà trước đây nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu vẫn còn để ngỏ do hạn chế về thiết
bị và phương thức tiếp cận tư liệu ở giai đoạn đó so với ngày nay. Đây cũng là
để tiếp tục hoàn thành công trình của người thầy đã từng dạy Việt Văn cho tôi
dưới mái trường Thủ Khoa Nghĩa cách nay gần 50 năm. Ngoài ra tôi đã được tiếp
cận ấn bản của hội Nghiên cứu Đông Dương xuất bản từ năm 1902 đến năm 1906 tại
thư viện của viện Bảo Tàng Lịch Sử TP HCM mà ngày xưa là trụ sở của hội Nghiên
Cứu Đông Dương, trong đó có bản chép và phiên âm bằng chữ Hán cùng với bản dịch
bằng tiếng Pháp bia văn Vĩnh tế Sơn và Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương do ông Trần
văn Hanh dịch vào năm 1905. May mắn tiếp theo là trong lúc hiệu đính tôi đã
được bạn bè tìm giúp một bản chữ Hán của
ông Cao Khắc Kiệm đăng trên tạp chí Nam Phong số 47 năm 1921. Nhờ so sánh các
bản dịch cùng với việc khảo sát những chữ còn sót lại trên bia tôi đã hiệu đính
thành công bài văn bia Vĩnh Tế Sơn này.
Toàn bài bia văn Vĩnh Tế Sơn như sau :
奉 特 賜 名 永 濟 山 碑 記
坤 靈 秀 氣 凝 結 而 為 山 人 因 而 名 之 其 來 尚 矣
或 以 勝 槩 或 以 佳 跡 或 以 象 類 或 以 邑 里 亦 以 昔 人 所 登 臨 遊 玩 而
名 之 亦 以 髙 士 所 棲 遲 隱 逸 而 名 之 大 抵 俗 傳 韻 語 習 而 稱 呼 耳
其 獲 登 瑤 版 經 睿 鑒 造 嘉 名 以 旌 殊 貺 者 鮮 矣 而 況 遠 界 番 陬 深 居
荒 服 者 乎
朱 篤 地 界 古 蠻 番 區 也 皇 朝 開 拓 南 服 其 地 方 入 版 圖 嚴 設 屯 營 以
控 番 國 屯 之 後 有 山 焉 曰 杉 山 俗 名 也 林 薮 荒 邈 猶 為 土 人 客 獠 之 居 雖 有 奇 景 佳 跡 亦 一 幽 巖 亂 石 之
堆 阜 爾 意 者 造 物 有 待 而 後 使 之 呈 奇 獻 異 歟
欽 奉 聖 上 經 理 封 疆 嚴 設 屯 守 臣 瑞 玉 侯 本 領 保 護 藩 邦 兼 按 守 朱
篤 屯 經 奉 玉 諭
文 軌 混 同 關 城 晏 閉 欲 使 莽 蒼 皆 成 閭 閻 氓 隷 悉 為 編 户 桑 蔴 翳 野
煙 火 相 望 與 寓 縣 並 躋 富 殷 之 盛 仰 庙
臣 受 命 衹 勤 鳩 民 以 立 邑 乃 相 本 地
一 路 橫 達 雙 雙 長 江 一 路 上 至 滀 榮 一 路 上 至 爐 嶇 隨 便 歸 為 村 落 開 墾 田 園
雖 未 足 以 副 萬 分 之 一 而 以 今 視 昔 則 殊 異 矣
艾 蓬 翦 棘 之 後 白 分 石 腳 綠 孑 竹 捎 此 山 遂 出 色 焉 盤 然 特 峙 闞 清
流 而 按 峻 岸 林 圃 遶 其 麓 嵐 捲 炊 煙 寺 庙 倚 其 嶺 香 飄 雲 盎 庶 幾 中 州 風 景 矣
奉 畫 圖 馳 進 仰 蒙 睿 照 以 昔 年 臣 奉 董 役 浚 東 川 港 道 既 以 臣 爵 名
表 港 傍 之 柆 山 曰 瑞 山 至 是 又 軫 及 臣 心 能 乘 關 雎 之 化 以 齊 其 家 而 臣 妻 朱 氏 名 濟 能 化 周 南 之 德 以
內 勗 其 夫 靡 盬 之 忱 有 少 助 焉 遂 以 人 名 賜 山 名 為 永 濟 山
人 以 山 標 名 而 釵 髻 增 光 皇 澤 之 膏 沐 也 山 以 人 得 號 而 草 花 生 色
皇 霑 之 滋 潤 也
臣 眼 腦 眺 舒 心 官 默 識 眞 山 運 遭 逢 之 嘉 會 而 老 臣 際 遇 之 奇 緣 不 然 何 以 膺 此 寵 靈 也
地 名 其 姓 山 名 其 人 寄 而 表 焉 歸 而 藏 焉 頓 覺 三 生 之 夙 契 寔 賴 鴻
造 之 有 成 豈 尋 常 之 榮 異 者 哉
至 乃 晨 光 散 霚 夕 照 飛 霞 木 笨 𥳰 以 垂 清 草 芊 眠 而 鋪 翠 塵 清 驛 路 凭
磴 遙 瞻 練 静 江 流 停 橈 閒 玩 指 點 相 謂 曰 此 特 攽 賜 名 永 濟 山 也
然 則 山 以 人 傳 歟 人 以 山 傳 歟 曰 是 皇 家 高 厚 之 恩 悠 久 無 疆 也 臣
謹 記
明 命 玖 年 歲 在 戊 子 著 雍 困 敦 秋 分 之 候
欽 差 統 制 按 守 朱 篤 屯 領 保 護 高 綿 國 印 兼 管 河 僊 鎭 邊 務 加 貳 級
紀 录 四 次 瑞 玉 侯 制
右 舊
黎 朝 中 試 三 河 武 視 承 撰
右 舊
黎 朝 員 子 蘇 江 阮 鐘 甫 承 寫
Bản
phiên âm :
PHỤNG ĐẶC TỨ DANH VĨNH TẾ
SƠN BI KÝ
Khôn
linh tú khí, ngưng kiết nhi vi sơn, nhơn nhân nhi danh chi, kỳ lai thượng hĩ.
Hoặc dĩ thắng khái, hoặc dĩ giai tích, hoặc dĩ tượng loại, hoặc dĩ ấp lý, diệc
dĩ tích nhơn sở đăng lâm du ngoạn nhi danh chi, diệc dĩ cao sĩ sở thê trì ẩn dật
nhi danh chi, đại để tục truyền vận ngữ, tập nhi xưng hô nhĩ. Kì hoạch đăng
diêu bản, kinh duệ giám, tạo gia danh dĩ sanh thù huống giả tiển hĩ, nhi huống
viễn giới phiên tưu, thâm cư hoang phục giả hồ ?
Châu
Đốc địa giới cổ man phiên khu dã.
Hoàng
triều khai thác Nam phục, kỳ địa phương nhập bản đồ; kinh thiết đồn doanh, dĩ
khống phiên quốc. Đồn chi hậu hữu sơn yên viết Sam sơn, tục danh dã. Lâm tẩu
hoang mạc, du vi thổ nhân khách liêu (2) chi cư. Tuy hữu kỳ cảnh giai tích, diệc
nhứt u nham loạn thạch chi đôi phụ nhĩ. Ý giả tạo vật hữu đãi nhi hậu sử chi
trình kỳ hiến dị dư ?
Khâm
phụng Thánh thượng kinh lí phong cương, nghiêm thiết đồn thủ. Thần Thoại Ngọc Hầu
bổn lãnh bảo hộ phiên bang, kiêm án thủ Châu Đốc đồn, kinh phụng ngọc dụ.
Văn
quỹ hỗn đồng, quan thành án bế, dục sử mãng thương giai thành lư diêm, manh lệ
tất vi biên hộ, tang ma ế dã, yên hỏa tương vọng, dữ ngụ huyện tịnh tê phú ân
chi thạnh.
Thần
thọ mạng kì cần, cưu dân dĩ lập ấp, nãi tương bổn giới địa thế (3) : nhứt lộ
hoành đạt song song trường giang (4), nhứt lộ thượng chí Sốc Vang (5), nhứt lộ
thượng chí Lò Gò (6), tùy tiện qui vi thôn lạc, khai khẩn điền viên. Tuy vị túc
dĩ phó vạn phần chi nhứt, nhi dĩ kim thị tích tắc thù dị hĩ.
Ngải
bồng tiễn cức chi hậu, bạch phân thạch cước, lục kiết trúc sao, thử sơn toại xuất
sắc yên, bàn nhiên đặc trĩ. Hám thanh lưu nhi chẩm tuấn ngạn, lâm phố nhiễu kỳ
lộc, lam quyện xuy yên, tự miếu ỷ kỳ điên, hương phiêu vân cái, thứ cơ trung
châu phong cảnh hĩ.
Phụng
họa đồ trì tiến, ngưỡng mông duệ chiếu; dĩ tích niên thần phụng đổng dịch tuấn
Đông Xuyên cảng đạo, kí dĩ thần tước danh biểu cảng bàng chi Sập sơn viết “Thoại
Sơn”. Chí thị hựu chẩn cập thần tâm, năng thừa Quan Thơ (7) chi hóa, dĩ tề kỳ gia, nhi thần thê Châu Thị danh Tế
năng hóa Châu Nam (8) chi đức dĩ nội trợ
kỳ phu, mi giám chi thầm hữu thiểu trợ yên. Toại dĩ nhơn danh tứ sơn danh, vi “Vĩnh
Tế Sơn”. Nhân dĩ sơn phiêu danh nhi thoa kế tăng quang,
Hoàng
trạch chi cao mộc dã, sơn dĩ nhân đắc hiệu nhi thảo hoa sanh sắc,
Hoàng
triêm chi tư nhuận dã.
Thần
nhãn não diêu thư, tâm quan mặc chí. Chân sơn vận tao phùng chi gia hội, nhi
lão thần tế ngộ chi kỳ duyên. Bất nhiên, hà dĩ ưng thử sủng linh dã?
Đãi
nữ quả hoàn nhân, giải phi tồ hóa dĩ tứ đại chi di, đắc tựu thử sơn dĩ tự thiên
yên. Địa danh kì tánh, sơn danh kì nhơn, ký nhi biểu yên, quy nhi tàng yên, đốn
giác tam sanh chi túc khế, thiệt lại hồng tạo chi hữu thành, khởi tầm thường
chi vinh dị giả tai !
Chí
nãi thần quang tán vụ, tịch chiếu phi hà, mộc bổn đính dĩ thùy thanh, thảo
thiên miên nhi phô thúy, trần thanh dịch lộ, bằng đặng diêu chiêm, luyện tịnh
giang lưu, đình nhiêu nhàn ngoạn, chỉ điểm tương vị viết: “Thử đặc ban tứ danh
Vĩnh Tế Sơn dã!”
Nhiên
tắc sơn dĩ nhân truyền dư ? Nhân dĩ sơn truyền dư ? Viết thị Hoàng gia cao hậu
chi ân, du cửu vô cương dã. Thần cẩn ký.
Minh
Mạng cửu (9) niên, Tuế tại trứ ung khổn đôn, thu phân chi hậu (10).
Khâm
sai Thống chế, Án thủ Châu Đốc đồn, lãnh Bảo hộ Cao Miên quốc ấn, kiêm quản Hà
Tiên trấn biên vụ, gia nhị cấp kỷ lục tứ thứ (11), Thoại Ngọc Hầu chế.
Hữu
(12), cựu Lê triều trúng thí, Tam Hà Võ thị thừa soạn.
Hữu,
cựu Lê triều viên tử, Tô Giang Nguyễn Chung Phủ thừa tả.
Bản
dịch nghĩa :
Bài văn bia phụng soạn nhân
dịp vua đặc biệt ban tên núi Vĩnh Tế
Đất thiêng khí lành, ngưng kết mà thành
núi, người nhân đó mà đặt ra tên, ấy là việc đã có từ xa xưa. Hoặc do cảnh đẹp, hoặc vì tích hay, hoặc tựa
hình dáng, hoặc theo thôn ấp, cũng có khi do người xưa lên đây du ngoạn mà đặt
tên, hoặc vì các bậc cao nhân dật sĩ đến nghỉ ngơi ẩn cư mà tên lại có, đại để
đều do tục truyền lời xưa đã quen mà gọi vậy.
Khi dâng lên bản ngọc, vua sáng suốt
minh xét đặt danh thơm mà biểu dương lưu lại, việc này ít có vậy. Huống chi là chốn xa xôi, ở tận cùng phiên dậu,
nơi thâm sâu hoang dã, thì việc này càng ít có lắm thay !
Đất Châu Đốc xưa kia thuộc khu vực
Phiên Man (Cao Miên) vậy. Triều đình mở
mang thâu phục cõi Nam, cho đất nhập vào bản đồ, nghiêm đặt đồn doanh để khống
chế nước Phiên. Phía sau đồn có núi, tục
gọi núi Sam vậy. Rừng rậm chằm ao hoang vắng xa xôi, còn là chốn ngụ cư của người
Thổ và người Khách Liêu (Côn Man). Tuy
có cảnh đẹp tích hay, chẳng qua là một hang tối sâu, đá loạn, gò thấp mà
thôi. Ý chừng Trời cao đãi ngộ để sau
này dùng đến, mà sắp bày cảnh lạ đẹp đến vậy chăng ?
Phụng mệnh Thánh Thượng kinh lý bờ cõi,
sửa sang đồn thủ, thần Thoại Ngọc Hầu vốn lãnh chức Bảo Hộ nước Phiên (Cao
Miên) kiêm Án Thủ đồn Châu Đốc, xin vâng theo lời chỉ dụ vàng ngọc của vua :
" Nền
văn hiến chung đồng làm một, nơi cửa thành đóng kín an vui, những mong nơi cỏ
hoang bát ngát đều trở thành làng mạc, để người dân lưu tán có sổ kê biên, dâu
gai đầy đồng, khói bếp tỏa khắp, người dân chung sống trong huyện được hưởng ấm
no thịnh vượng".
Thần thụ mệnh siêng năng kính cẩn, nhóm
dân lập ấp ; tùy xem địa thế : một đường ngang song song với Trường Giang (sông
Lớn), một đường thẳng đến Sốc Vang, một đường thẳng đến Lò Gò, tùy theo sự thuận
tiện mà hợp thành thôn làng, khai khẩn ruộng vườn. Tuy việc được giao phó trong muôn phần chưa
thỏa mãn được một, nhưng so với lúc xưa, thật là khác nhau lắm vậy.
Từ sau khi dọn cỏ phát gai, chân núi hiện
rõ trắng phau, ngọn tre một màu xanh ngắt, núi này trông đẹp đẽ hẳn lên vậy,
núi quả nhiên sừng sững khác hẳn. Ngắm
dòng nước biếc mà vỗ bờ cao, ruộng vườn dọc quanh chân núi, khí sơn lam quyện
chung khói bếp, chùa miếu hòa vào đèo núi, hương tỏa mây lồng, thật không kém
gì cảnh đẹp nơi đô thành vậy.
Phụng
mệnh vội vã dâng lên bức họa đồ, ngưỡng mong Thánh Thượng soi xét.
Do năm xưa thần phụng mệnh coi sóc việc đào kênh Đông Xuyên, vì vậy mà
tước danh thần được mang tên là tên sông Thoại (Thoại Hà), bên cạnh việc
núi Sập được đổi tên thành núi Thoại (Thoại Sơn). Đến nay lại vì nỗi xót xa trong lòng của thần
, tiếp thừa đạo nghĩa vợ chồng Quan Thư mà lo việc nhà ổn thỏa, rồi vợ thần là
Châu Thị Tế đã có được đức hạnh Châu Nam mà lo việc nội trợ cho chồng, có chút
nhiệt tâm hỗ trợ việc công vậy, nên lấy tên người ban cho tên núi là núi Vĩnh Tế
(Vĩnh
Tế Sơn).
Người nhờ núi nêu tên mà trâm tóc vẻ
vang, ơn vua gội thấm vậy; núi nhờ người được danh hiệu mà cỏ hoa khoe sắc, ơn
vua tưới nhuần thay.
Thần nhãn não mở mang, lòng thầm ghi nhớ,
thật là vận núi gặp được hội tao phùng mà lão thần do kỳ duyên được tế ngộ. Nếu không phải vậy, do đâu mà có được sự ân sủng
thiêng liêng đến thế ?
Kịp khi vợ nhà đã về với núi, thoát bỏ
trần duyên mà về với tứ đại, mong được yên nghỉ tại núi này lắm thay ! Đất đặt
tên theo họ, núi đặt tên theo người. Sống
gởi mà hiển dương sao, thác về còn lưu dấu vậy ! Chợt ngộ rằng duyên nợ ba sinh thật nhờ ơn Trời
mà được, há chẳng khác vinh hoa tầm thường lắm chăng ?
Lại khi ánh mai sương tản, bóng chiều
ráng rọi, cây cối xù xì rậm rạp ửng một màu xanh, ngọn cỏ như bừng tỉnh dậy khoe sắc thắm. Bụi lắng
trên đường, dõi nhìn bậc thang trên núi xa xa, dòng sông như giải lụa yên tĩnh,
lỏng buông tay chèo nhàn hạ thưởng ngoạn, trỏ nơi ấy mà bảo nhau rằng : " Đây,
nơi vua đặc biệt ban tên là núi Vĩnh Tế vậy!"
Thế thì núi nhờ người mà được lưu truyền
chăng ? Người nhờ núi mà được lưu truyền chăng?
Nghĩ rằng: do Vương triều ơn gội cao dày, sánh cùng trời đất lâu dài mà
được vậy. Thần kính cẩn ghi lại.
Năm Minh Mạng 9 (1828 nhằm
năm Mậu Tý), can Trứ Ung chi Khốn Đôn, nhằm tiết Thu Phân.
Khâm Sai Thống Chế án thủ đồn Châu Đốc,
lãnh Quốc Ấn Bảo hộ Cao Miên, kiêm quản việc biên giới thuộc trấn Hà Tiên, gia
cấp bậc thứ hai, kỷ lục lần thứ tư, Thoại Ngọc Hầu tạo tác.
Phần trên do người đậu kỳ thi tuyển của
triều Lê xưa, Tam Hà họ Võ vâng lệnh soạn thảo.
Phần trên do thư lại của triều Lê xưa,
Tô Giang Nguyễn Chung Phủ vâng lệnh sao chép.
H03. Bia vĩnh Tế sơn với nội dung đã được phục chế.
H04. Hoa văn lưỡng long tranh châu trên bia.
Có một vài ý kiến cho rằng bia đã được
khắc chữ lại vào đầu thập niên 1960 nhưng qua khảo sát không hề có một dấu vết
chứng tỏ đã làm lại bởi vì trên nền bia bị xâm thực loang lổ không thể nào khắc
lại chữ được.
Một vấn đề khá lý thú nữa, là bốn tấm
bia bằng sa thạch màu đen được đặt kề bên bia Vĩnh tế Sơn gợi cho ta những giả
thuyết sau :
Trong lúc đào kinh Vĩnh Tế và khai phá
vùng Châu Đốc, Thoại Ngọc Hầu đã tìm thấy 4 tấm bia bằng sa thạch này. Những tấm
bia này có nguồn gốc từ vương quốc Phù
Nam ( tồn tại từ đầu Công nguyên đến thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên). Trên các tấm
bia này có ghi những dòng chữ Phạn cổ. Lúc đầu ông định sử dụng 4 tấm bia này để
ghi bài văn Vĩnh Tế Sơn nên đã cho người mài nhẵn những chữ Phạn cổ trên tấm
bia này. Công việc tưởng chừng thuận lợi rốt cuộc lại khó khăn. Do bia làm bằng
sa thạch rất cứng nên việc khắc chữ trên bia mất nhiều thời gian mà không đem lại
kết quả như ý muốn. Vì vậy ông phải bỏ cuộc và thay vào đó bằng đá hoa có nguồn
gốc từ phía Tây của Chân Lạp mềm hơn để dễ dàng khắc những hoa văn lên trên đó.
Dấu tích còn sót lại minh chứng cho điều này là chúng ta phát hiện có một vài
chữ Hán ghi trên bia bằng sa thạch (ở tấm bia phía trái bia Vĩnh Tế Sơn ), còn
tấm bia phía bên phải có những dòng chữ Phạn cổ còn sót lại trên nền bia chưa bị
mài nhẵn. Chứng cứ này càng thêm xác định giả thuyết trên là đúng.
Nhờ vào bia Vĩnh Tế Sơn, người đời sau
có thể tìm lại được công trình của ông Thoại Ngọc Hầu và những di tích liên
quan đến Châu Đốc đã bị lãng quên. Thí dụ như trong câu : nhất lộ hoành đạt
song song Trường Giang, nhất lộ thượng chí Sóc Vang, nhất lộ thượng chí Lò Gò”
người ta mới biết ông đã làm con đường từ Long Xuyên đi Châu Đốc song song với
sông Hậu. Con đường này được làm song song với việc đào kinh Vĩnh tế và tận dụng
số lượng dân quân dư thừa trong mùa nước nổi không thể đào kinh được nên chuyển
dang làm nhiệm vụ đắp đường. Con đường này chỉ cho xe ngựa và khách bộ hành đi
lại dễ dàng bởi vì trước đó chỉ là lối mòn do người dân đi lại mà thành, vào
mùa nước nổi thì bị ngập không đi lại được. Nhờ con đường này mà đồn Châu Đốc
có thể liên hệ với bảo Đông Xuyên. Mãi đến năm 1922 người Pháp mới mở rộng con
đường này để cho ô tô đi lại dễ dàng. Con
đường từ Châu Đốc đến Nam Vang tức Phnom Penh ngày nay và con đường từ Châu Đốc
đến Lò Gò tức Angkor Borey thủ đô của vương quốc cổ Phù Nam cũng được ông cho
làm. Đây là con đường chiến lược bởi vì từ năm 1819 khi nhận chức bảo hộ Cao
Miên lần thứ 3, ông không ở Nam Vang mà sống tại đồn Châu Đốc để trông coi việc
đào kinh Vĩnh tế.Tin tức từ thành Nam Vang sáng sớm nếu phi ngựa đi trên con đường
này thì đến chiều sẽ đến thành Châu Đốc. Đồn đóng tại vùng Angkor Borey có nhiệm
vụ bảo vệ cho đồn Châu Đốc trước sự xâm lấn của quân Xiêm từ hướng tây. Đồn
Châu Đốc ngày xưa đã được định vị trên bản đồ hiện nay, nó hình lục giác gồm 2
cạnh dài và 4 cạnh ngắn, được làm bằng đất có cạnh dài từ đông sang tây khoảng
640m( từ đường Nguyễn Đình Chiểu đến đường Louis Pasteur ). Chiều ngang của đồn
khoảng 320 m ( từ đường Trần Hưng Đạo đến đường Thủ Khoa Nghĩa). Cầu Kinh Giồng
trên đường Louis Pasteur chính là điểm xuất phát của kinh Vĩnh tế bởi vì từ đó
đến đầu vàm nơi có đình Vĩnh Nguơn chính là hào thành phía Tây của đồn Châu Đốc.
Đồn có 3 cửa : cửa phía Đông là cửa chính, cửa phía Bắc là nơi quân đồn trú, cửa
phía Tây là kho chứa quân lương.
H05. Vị trí đồn châu Đốc so với hiện nay.
Ngoài tên gọi là Vĩnh Tế Sơn, núi Sam
còn được gọi là Học Lãnh sơn. Điều này thể hiện qua hai câu đối nơi chính điện
miếu Bà Chúa Xứ núi Sam
鱟嶺威嚴同荷坤貞之採
朱江節映均蒙普度之恩
Dịch âm : Học Lãnh uy nghiêm, đồng hà
khôn trinh chi thải,
Châu Giang tiết ánh, quân mông phổ
độ chi ân.
Tên
gọi này xuất hiện trước khi tên Vĩnh Tế được ban cho núi Sam.
Để bảo tồn bia Vĩnh Tế Sơn không bị hư
hại theo thời gian do để ngoài trời chịu nhiều mưa nắng, UBBND thành phố Châu Đốc
cùng với hội KHLS An Giang đã tiến hành hiệu đính và phục dựng laị bia Vĩnh tế
Sơn cùng với bia Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương. Đến nay thì công việc hiệu đính đã
xong còn phần thiết kế lại bia thì đang tiến hành.
Bia phục chế này sẽ làm hai mặt : một mặt chữ Hán sẽ được
trình bày theo lối văn bia cổ, mặt kia sẽ làm bằng chữ Việt để cho mọi người có
thể đọc được. Tuy nhiên việc thực hiện những hoa văn trên mặt bia bằng phương
pháp thủ công là chuyện không tưởng, bởi vì những hoa văn khắc trên bia rất phức
tạp và tinh xảo, cần người thợ có tay nghề cao và mất nhiều thời gian , công sức. Tuy nhiên, vấn đề này có thể
khắc phục bằng cách sử dụng máy khắc đá kỹ thuật số, một thành tựu trong việc tự
động hóa ngành điêu khắc hiện nay. Bia sẽ được máy móc chuyên dùng ghi và dựng
lại theo công nghệ 3D, khắc phục những khiếm khuyết rồi mới được đưa đến máy để
thực hiện công đoạn chạm khắc. Nếu sử dụng công nghệ này thì thời gian chạm khắc
sẽ được rút ngắn và những hoa văn sẽ được thực hiện chính xác theo đúng nguyên
bản. Vấn đề còn lại là các văn tự Hán Nôm phải được thẩm định nghiêm ngặt,
tránh sai sót trong quá trình chế tác.
Bảo tồn và tôn tạo những di tích như
lăng, bia cổ là việc làm cần thiết bởi vì nó ghi lại được sự gian khổ, hy sinh
của các bậc tiền nhân đã khai phá và giữ gìn từng tấc đất của quê hương. Đây là
một bài học thực tế nhất để con cháu đời sau không quên cội nguồn của mình và để
môn lịch sử không bị lãng quên theo thời gian. Đó cũng là niềm tin để thế hệ
sau này hướng tới tương lai trong niềm tự hào của dân tộc chứ không lệ thuộc
ngoại bang.
LÂM THANH QUANG.
Chú
thích :
(1) Bia này đang được phục chế cùng với
bia Vĩnh tế Sơn.
(2)
Chữ客獠 trong bản Hán văn đọc là khách liêu chỉ dân tộc thiểu số
còn lạc hậu từ nơi khác đến . Ở đây Thoại Ngọc Hầu ám chỉ người Chăm sống ở An
Giang có nguồn gốc từ miền Trung Việt Nam bị chúa Nguyễn đánh đuổi chạy sang
Chân Lạp. Do đụng chạm với người Chân Lạp nên họ bị đàn áp dã man. Sau đó họ
theo Nguyễn Cư Trinh về định cư tại An Giang. Người Lào chưa từng sống ở vùng
An Giang. Thoại Ngọc Hầu đã từng đi sứ sang Lào ( còn gọi là Lão Qua) nên rất
rõ điều này.
(3) Chữ thế trong văn bia là chữ nôm
chứ không phải chữ 势 như trong sách đã ghi. Chữ nôm
này ngày nay ít được dùng.
(4)
Con đường này không được nhắc đến trong công trình của Thoại Ngọc Hầu đối với
vùng đất An Giang bởi vì người ta gộp chung nó với công trình đào kinh Vĩnh tế.
(5) Sốc Vang : là Nam Vang tức Phnom
Penh thủ đô của Vương quốc Campuchia hiện nay.
(6) Lò Gò : là Angkor Borey, thủ đô của
Vương Quốc Phù Nam cỗ tồn tại từ đầu Công Nguyên đến thế kỷ thứ 7. Người Việt
còn gọi là Ba Nam.
(7)
Điển tích Quan Thư lấy từ 4 câu thơ trong kinh thi :
Dịch âm :
Quan quan thư cưu,
Tại hà chi châu.
Yểu điệu thục nữ,
Quân tử hảo cầu.
Tại hà chi châu.
Yểu điệu thục nữ,
Quân tử hảo cầu.
Dịch nghĩa
Đôi chim thư cưu hót hoạ nghe quan quan,
Ở trên cồn bên sông.
Người thục nữ u nhàn,
Phải là lứa tốt của bực quân tử (vua). ( nguồn thivien.net)
Ở trên cồn bên sông.
Người thục nữ u nhàn,
Phải là lứa tốt của bực quân tử (vua). ( nguồn thivien.net)
(8) Điển tích Châu Nam là
những bài thơ của nước Châu Nam trong kinh Thi có 11 thiên, cả thẩy 34 chương,
159 câu.
Theo phần thơ Châu nam này, 5 bài thơ đầu đều nói về đức hạnh của bà Hậu phi.
Theo phần thơ Châu nam này, 5 bài thơ đầu đều nói về đức hạnh của bà Hậu phi.
Những bài thơ này
được truyền tụng trong dân gian nói về đức hạnh của người phụ nữ lo việc nội
trợ giúp chồng.
(9).
Chữ cửu (玖) trên bia là chữ là chữ
cửu kép. Theo Khâm định Đại Nam Hội điển Sử lệ thì bắt đầu từ năm Minh Mạng thứ
tư, những chữ ghi niên hiệu của nhà vua và những chữ số quan trọng trong các
văn bản phải dùng chữ số kép để tránh bị sửa chữa làm sai lệch nguyên gốc.
(10)
Trong bản của ông Trần văn
Hanh viết thiếu chữ phân trong cụm từ “Thu phân chi hậu” . Qua việc khảo sát
văn bia thì trên bia viết rõ ràng là “ Thu phân chi hậu”.
Chữ
hậu trên bia là chữ 候 nghĩa
là khí hậu chứ không phải là chữ 後 có nghĩa là sau như trong bản của ông Trần văn Hanh. Ông
Nguyễn văn Hầu đã viết đúng khi dùng chữ 候 nghĩa
là khí hậu này.
(11) Khi vua Minh Mạng lên ngôi năm 1820 đã
có qui định về mức tặng thưởng. Lúc đầu chỉ có 3 bậc kỷ
lục, sau thêm 2 bậc nữa thành ra 5 bậc. Đó là: Ân thưởng, Nghị tự, Tùy đới,
Quân công, Trác dị.
Ba bậc đầu là cấp kỷ
tầm thường. Hai bậc sau là cấp kỷ đặc biệt. Một bậc đặc biệt có giá
trị bằng 2 bậc tầm thường. Mỗi cấp kỷ lại được thưởng 4 lần, gọi là “tứ thứ” 四 次.v.v…(
Tự Điển nhà Nguyễn của NNC Võ Hương An
xuất bản năm 2012 tại Mỹ ).
Trong lúc đào kinh Thoại Hà, ông đã được tặng thưởng ở bậc thứ nhất kỷ lục lần
thứ nhất rồi, lần này ông được thưởng kỷ lục lần thứ tư là bậc tột cùng của bậc
tặng thưởng thứ hai.
(12) Trong bản của ông NVH do chép sau
nên không có chữ右 như bản của ông Trần văn Hanh. Vì
vậy ông chỉ dịch theo nguyên văn chữ Hán là “Cựu thần Lê Triều trúng thí Tam Hà
Võ Thị thừa soạn”. Trong bản dịch của
LTQ , tác giả đã dịch đúng theo bản của ông Trần văn Hanh là “ Phần trên do người
đậu kỳ thi tuyển của Triều Lê xưa, Tam
Hà họ Võ soạn ra”. Kỳ thi tuyển ở đây không có nghĩa là kỳ thi Hương hay thi Hội
do triều đình tổ chức mà là kỳ thi tuyển vào ngạch thư lại do địa phương tổ chức
để lấy người vào giúp việc cho các quan chức tại địa phương.
Tô Giang Nguyễn Chung Phủ là thư lại của
Triều Lê xưa nhưng không rõ đã qua kỳ thi tuyển chưa không thấy ghi ra đây. Tuy
nhiên người này cũng là một người giỏi văn chương nên mới được phân công vào việc
viết văn bia bởi vì chữ ghi trên văn bia nếu sai một nét cũng sẽ làm hỏng cả
bài văn.
Tài liệu tham khảo :
1.Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá
miền Hậu Giang nhà xuất bản Hương Sen năm 1972 và nhà xuất bản Trẻ năm 2006.
2. Ấn phẩm của Viện Nghiên cứu Đông
Dương ( Publication de la Société des Études Indo-Chinoises ) bản chữ Hán do
ông Trần văn Hanh dịch và chữ Pháp với tựa đề Inscription de la Montagne de Vinh-Te in tại Sài Gòn năm 1905.
3. Bản chữ Hán của ông Cao Khắc Kiệm
đăng trên Tạp chí Nam Phong số 47 năm 1921.
4. Bia Vĩnh tế Sơn nơi Sơn Lăng Thoại
Ngọc Hầu, P Núi Sam, TP Châu Đốc, tỉnh An Giang.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét