Tóm lược tiểu sử oai hùng của cụ
PHAN THANH GIẢN
PHAN THANH GIẢN
(1796-1867)
Tiến sĩ, Thượng thư
PHAN THANH GIẢN
(1796-1867)
Tiến sĩ, Thượng thư
Cụ Phan Thanh Giản tự là Tĩnh Bá, hiệu là Đàm Như, Ước Phu và Lưỡng Khê, sinh năm Bính Th́n (1796) tại thôn An Ḥa(b), huyện Vĩnh B́nh, trấn Vĩnh Thanh, nay thuộc huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Ông đậu cử nhân năm 1825 khoa ất Dậu, kế đó ông đậu tiến sĩ khoa Bính Tuất niên hiệu Minh Mệnh 7 (1826) năm ông 30 tuổi, ông là người đậu tiến sĩ khai khoa đầu tiên ở Nam bộ. Sau khi thi đỗ được bổ chức biên tu ở Hàn Lâm viện, được cử làm phó sứ sang nhà Thanh (1832) khi trở về được thăng Đại lư tự khanh cơ mật viện đại thần trước sau từng giữ các chức thượng thư Bộ Lễ, bộ H́nh bộ Hộ, làm Hiệp biện đại học sĩ, làm quan trải qua 3 đời vua: Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức (từ 1826 đến 1867).
Thời kỳ này là thời kỳ đất nước gặp nhiều khó khăn các nước tư bản phương Tây đă phát triển sang phương Đông để xâm chiếm thị trường, ở Việt Nam từ thời Trịnh Nguyễn cũng đă có nhiều người phương Tây sang giúp đỡ về quân sự, đúc súng như Bồ Đào Nha sang giúp Chúa Nguyễn, Hà Lan giúp chúa Trịnh, và mở thương điếm buôn bán ở Hội An (Quảng Nam) và Phố Hiến (Hưng Yên) đồng thời cũng có một số giáo sĩ đạo Gia Long sau khi nhờ sự viện trợ của một số tàu và sĩ quan Pháp lên ngôi vua th́ việc truyền giáo được tự do trên đất nước, nhờ đó mà số giáo dân được phát triển ở nhiều nơi, tuy vậy đến sau, những thày tu người Pháp cấu kết với Chaigneau một công thần người Pháp ở triều đ́nh phát huy ảnh hưởng sang lĩnh vực chính trị, làm cho vua Gia Long lo ngại, đến lúc các giáo sĩ người Pháp ra mặt phản đối Gia Long lập vua Minh Mẹnh làm thái tử mà không theo ư họ phải lập con trai hoàng tử Cảnh - con chiên của Bá Đa Lộc, làm kế vị, từ đó Gia Long đối với đạo Cơ Đốc tỏ ra khinh bỉ và hận thù. Khi Minh Mệnh lên ngôi (1820) khi triều đ́nh Huế không công nhận Engene Chaigneau làm lănh sự tại Huế, th́ không c̣n con buôn ngoại quốc nữa chỉ c̣n một số các giáo sĩ địa phương, mà các giáo sĩ lại cấm người theo đạo không được thờ cúng cha mẹ tổ tiên, làm cho từ vua quan đến sĩ phu nhân dân tức giận, cho là tà đạo, đă vậy lúc chiếc tàu Tétis bị đuổi rút khỏi Đà Nẵng, th́ bí mật để lại một giáo sĩ là Rogerot để hoạt động, làm cho vua Minh Mệnh tức giận lại tiếp được rất nhiều báo cáo địa phương nói về tác hại đạo này trong nhân dân, nên ra lệnh cấm đạo. Thực chất th́ tư bản Pháp từ trước, sau khi thấy tư bản Bồ, Hà, Anh đă bành trướng sang Viễn Đông, nhất là vùng biển Đông th́ đă vội vàng phái các nhà buôn, thày tu sang hoạt động vùng này, trong đó có Việt Nam và đă có âm mưu xâm chiếm Việt Nam từ lâu, ví dụ từ năm Kỷ dậu 1669 đời Lê Huyền Tông giáo sĩ Pallus đă gửi thư cho thượng thư Hải quân P. Colbert xin chiếm vực lưu sông Hồng Hà, hoặc năm 1737 Đinh Tỵ đời Lê ư Tông toàn quyền Pondichery (chế độ thuộc Pháp) là Dumas tŕnh bày dự án xâm lược miền Bắc Việt Nam... (b) nhưng Pháp c̣n ḱnh địch tư bản các nước khác, như Anh , Hà, Bồ... nên c̣n dịp. Dịp Bá Da Lộc giúp đỡ vua Gia Long nhận hoặc tử Cảnh làm con chiên sang cầu viện Pháp, rồi phát triển rộng đạo cơ đốc, nhưng đến đời Minh Mệnh, tới đến Thiệu Trị, Tự Đức, th́ lệnh cấm đạo và trừng trị những giáo sĩ đội lốt thầy tu làm nội ứng cho tư bản Pháp, th́ đấy là một dịp lấy cớ bảo vệ giáo sĩ, chia lương giáo để xâm chiếm nước ta. Để đối phó từ việc quan triều thần đến các quan địa phương đều thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng, không cho bất cứ tàu nhà buôn ngoại quốc xâm nhập nước ta, đối nội cấm đạo bắt tu sĩ, giáo sĩ, cấm nhân dân không được đi theo đạo. Chính sách bế quan tỏa cảng, chỉ biết ḿnh không biết người, lấy đạo Nho làm chuẩn đích văn minh không hề biết đến sự thay đổi về khoa học, cơ khí, cũng có kẻ đưa chủ trương cải cách duy tân, nhưng vẫn không nghe, đến khi tiếng súng đại bác của tướng Phá Rigault De genouilly bắn vào cửa Đà Nẵng vào năm 1858 rồi tiến vào đánh Gia Định 9-2-1859 (Tự đức thứ 12) trong lúc ấy th́ vũ khí quân ta chỉ có súng điểu thương và súng thần công, phải lấy thuốc súng bỏ đầu miệng súng nén vào rồi bỏ đạn sau, lúc bắn phải dùng đá lửa, rồi bóp c̣ cho đá lửa nảy cháy vào ng̣i dẫn đến chỗ thuốc súng nổ mới bắt được, bắn một phát rất chậm trễ, súng điểu thương cũng chỉ xa độ 250-300m(a) súng thần công th́ rất nặng nề khó di chuyển, mỗi lần ra trận hoặc bắn không nổ, th́ đốt hương vàng khấn vái.
Trận đánh thành Gia Định sau hai ngày, ngày 17-2-1859 quân ta phải thua chạy, triều đ́nh lại phải cử các danh tướng Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Cáp, Phạm Thế Hiển và điều thêm quân vào cứu, nhưng vẫn không chống cự nổi. Cuối cùng liên quân Pháp, Tây Ban Nha chiếm hết các tỉnh Biên Ḥa, Định Tường (Mỹ Tho) và cả Vĩnh Long (23-3-1862), vua tôi nhà Nguyễn rối loạn, kẻ bàn đánh, kẻ bàn ḥa, đánh th́ không được, ḥa cũng không xong, cuối cùng phải cử Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp vào Nam hội nghị, vua chuẩn cho Sung Nghị ḥa Chánh phó sứ toàn quyền đại thần, trên tinh thần là đ́nh chỉ chiến sự, nhưng xin chuộc lại các tỉnh đă mất!
Sau 40 năm ngày giằng co hội họp, cuối cùng ngày 5-6-1862 tức 9-5 Nhâm Tuất, hiệp ước phải kư kết Pháp I (I Pha Nho tức Tây Ban Nha) vẫn khăng khăng giữ 3 tỉnh miền đông (Gia Định, Định Tường, Biên Ḥa) và chỉ trả cho tỉnh Vĩnh Long, nhưng Pháp vẫn để một số quân ở lại đó, Phan Thanh Giản, một nạn nhân của chính sách thất bại của triều đ́nh Tự Đức, phải cầm bút kư bản nghị ḥa. Tiếp sau đó triều đ́nh lại phái ông vào làm Tổng đốc Vĩnh Long, Lâm Duy Hiệp vào làm Tuần Vũ Thuận Khánh với dụng ư để 2 ông ở gàn Pháp mà tiếp tục thương thuyết xin trả lại 3 tỉnh(a). Hai ông đến nơi nhiệm sở cố thương thuyết xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông, cố nhiên là thiếu tướng Bonard không chịu.
Theo bản ḥa ước Nhâm Tuất 1862, th́ sau một năm đợi vua 3 nước duyệt y th́ ḥa ước mới được thi hành, nhưng tháng 9 năm ấy mới cách mấy tháng mà thiếu tướng Bonard đă báo tin là vua Pháp đă duyệt y và hẹn đến tháng giêng năm sau - Quư Hợi Tự Đức thứ 16 (tức tháng 2 năm 1863) sẽ ra kinh làm lễ hộ giao. Vua Tự Đức nói nhiều chỗ trong hiệp ước ấy chưa thỏa, nên giao Phạm Phù Thứ vào Nam bộ cùng Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp hiệp thương lại với quan Pháp, xong về ngay đường bộ để sung việc tiếp sứ.
Tháng 2/1863 Thiếu tướng Bonard (Pháp) cùng Đại tá Palânc (I Pha Nho) đi tàu thủy ra Đà Nẵng rồi lên Kinh đô Huế, ở trọ tại một nhà trú quán mới làm trên bờ sông Hương, vua Tự Đức sai Trung quân Đoàn Thọ, Binh bộ thượng thư Trần Tiến Thành cùng Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp, Phạm Phú Thứ sang yến tiếp và thương thuyết các việc, trước khi làm lễ triều yết, nhưng cũng không xong. Đến ngày, vua Tự Đức ngự điện Thái Ḥa, sứ thần 2 nước Pháp, I Pha Nho 16 người để trao quốc thư và hộ giao hoà ước. Vua Tự Đức lại sai Phan Thanh Giản theo Bonard về Gia Định để nhận tỉnh Vĩnh Long v́ thiếu tướng hứa giao lại, c̣n về phía I Pha Nho đại tá Palanca chỉ nhận binh phí và quyền giảng đạo, c̣n đất đai th́ nhường cả cho Pháp.
V́ thương thuyết không được ǵ nên Phan Thanh Giản bị cách lưu, Đoàn Thọ, Trần Tiến Thành bị giáng, Lâm Duy Hiệp khi ấy đă mất nhưng cũng bị truy đoạt phẩm hàm.
Ḥa ước đă kư nhưng 3 tỉnh miền Đông phải nhường, đó là do t́nh thế bắt buộc, tháng 5 Quư Hợi (1863 Tự Đức 16) vua cùng đ́nh thần lại bàn sai sứ sang Pháp Hoàng đế xin chuộc lại, vua và triều thần lại cử một phái đoàn sang Pháp gồm Hiệp biện đại học sĩ Phan Thanh Giản, Lại bộ tả tham tri Phạm Phú Thứ, Quảng Nam án sát Nguyễn Khắc Đản, để sung chức: Chánh sứ, phó sứ và bồi sứ. Ba sứ thần và ước 60 quan viên mang lễ vật tặng vua Pháp và vua I Pha Nho (trong đó có một cái kiệu 4 cái tàn) tháng 6 năm ấy Pháp soái là Lagrandière (thay Bonard) cho thuềyn Européen đưa phái đoàn ta sang Tây, thuyền phí triều đ́nh ta chịu lại cho một sĩ quan là Rieunier theo hướng dẫn. Pháp soái cũng phái 9 nhân viên thuộc ngành hành chính Nam kỳ trong đó có Trương Vĩnh Kư, Nguyễn Văn Sang, Tôn Thọ Tường tháp tùng sứ bộ, phí tổn do Phái quyền Sài G̣n đài thọ, theo yêu cầu của Phan Thanh Giản, một linh mục Việt Nam là Nguyễn Hoàng được cử đi làm thông dịch viên cho ta.
Ngày 13-9-1863, phái đoàn đến Pháp đô, được chính thức tiếp rước theo nghi lễ. Vua Napoleon III đi vắng các sứ thần ta yết kiến các quan Thượng thư để bày tỏ ư ḿnh. Bấy giờ Pháp đ́nh có một số người không tác thành việc lấy thuộc địa xa xôi, lúc ấy cuộc viễn chinh của Pháp ở Mexique đương kéo dài chưa biết bao giờ xong, mà ngân sách lại thiếu hụt, nên trong khi chờ vua Napoleopn III về, th́ 2 bên chỉ bàn bạc về tiền chuộc đất, định triệt hạ quân Pháp ở Nam Kỳ về và định đô 100 triệu Frăng tiền chuộc ba tỉnh.
Ngày 7-11-1883 các sứ thần vào yết kiến Pháp hoàn các ông mặc triều phục, ngồi 4 xe song mă, đến thẳng điện Tuileries và được tiếp rước theo nghi lễ trọng thần vua Napoleon III ngự trên ngai, bên cạnh có hoàng hậu và hoàng tử. Phan Thanh Giản dâng bức thư của vua Tự Đức và bày tỏ mục đích của phái bộ ḿnh. Pháp hoàng đáp lời có nói:".... nước Pháp có hảo tâm với tất cả các nước và là kẻ bênh vực những kẻ yếu..." Aubaret làm thông ngôn, ông này rất giỏi tiếng Việt và chữ Hán, có dự vào việc lập ḥa ước năm Nhâm Tuất. Kết quả Pháp đ́nh đă bằng ḷng và về sau hai nước sẽ thương thuyết số tiền chuộc ở Huế và các chi tiết. Như vậy về đại cương nhiệm vụ của sứ bộ Phan Thanh Hiản đă thành công. Các sứ thần có mang I Pha Nho yết kiến Nữ hoàng Isabelle rồi về nước. Tháng 2 năm sau Giáp Tư 1864, Tự Đức 17, phái đoàn về Gia Định, Pháp soái cho chiếc tàu Rcho đưa các ông về Huế.
Các sứ thần dâng quốc thư của nước Pháp và I Pha Nho gồm 21 khoản trong đó có những khoản quan trọng. Nước Nam muốn chuộc lại 3 tỉnh Nam Kỳ th́ cũng thuận cho, nhưng phải cắt nơi nào đó cho họ quản trị, trong 3 năm mỗi năm chuộc 50 vạn đồng, về sau cứ mỗi năm 333.333 đồng ở Kinh, Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên để họ đặt lănh sự. Giáo sĩ được tùy tiện lập giáo đường, ta không được ngăn...
Hải quân trung tá Aubret lại được Pháp đ́nh sai làm lănh sự ở Huế và Vọng Các (Xiêm la) tháng 5 năm ấy cùng ta thương thuyết việc chuộc lại 3 tỉnh Nam Kỳ. Vua sai ông Phan Thanh Giản làm toàn quyền Chánh sứ, Trần Tiến Thành, Phan Huy Vĩnh làm phó sứ để cùng Aubaret hội thương, sau 1 tháng điều đ́nh, ḥa ước 15-7-1864 được thành lập, trong đó có những khoản:
- Nước Pháp trả lại nước Nam 3 tỉnh đă chiếm, bù lại nước Pháp nhận quyền bảo hộ cả 6 tỉnh Nam Kỳ, tuy vậy sự bảo hộ này không có ư ǵ là thần thuộc cả.
- Nước Pháp chiếm 3 nơi ở Sài G̣n, Mỹ Tho, Cap Saint Jacques (Vũng Tàu) để ở buôn bán.
- Người Pháp được trú ở Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên, và được nhượng 9 km xung quanh các hải cảng ấy để làm chỗ buôn bán.
- Nước Nam bồi binh phí 80 triệu phật lăng trả trong 40 năm mỗi năm 2 triệu.
- Người Pháp có cần đi vào đất nước Nam có việc ǵ th́ phải xin giấy thông hành, việc xong phải về ngay các hải cảng nói trên.
- Các giáo sĩ được tự do truyền giáo, nhưng luật pháp của triều đ́nh vẫn cấm thần dân xa đường luân lư và tôn giáo nước nhà.
Trong khi ở Huế, Aubaret lập ḥa ước mới, th́ ở Pháp phe tán thành ḥa ước Nhâm Tuất (1862) cũng hoạt động ráo riết nhất là phái quân nhân trong đó có thiếu tướng Rigault De Genouilly, thiếu tướng Bonard là những tên tướng đă từng đánh ở ta, Thượng thư bộ hải quân và thuộc địa là hầu tước Chasseloup Laubat... họ viết thành sách về vấn đề Nam Kỳ gửi cho tất cả các thượng tướng, chính khách và viết sớ tâu lên vua Napoleon III, khiến nhà vua xuống lệnh đ́nh chỉ việc thương thuyết của Aubaret ở Huế và cứ để ḥa ước 1862 như cũ, lệnh ấy ra đến Huế th́ hiệp ước Aubaret mới kư được 6 ngày. Pháp súy Sài G̣n báo cho triều đ́nh Huế, là Pháp đ́nh đă bác bỏ hiệp ước Aubaret và Phan Thanh Giản kư hôm 15-7-1864.
Ba tỉnh phía Đông vẫn dưới quyền của Pháp, tuy đă kư, nhưng nhân dân cùng các sĩ phu của các tỉnh Nam Kỳ vẫn nổi dậy chống lại quân Pháp không theo lệnh của hoà ước, Pháp suư Sài G̣n liền cử người ra Huế xin ra lệnh cấm, nhất là mỗi khi thua, họ lại chạy về 3 tỉnh phía tây. Vua Tự Đức sợ họ mượn cớ lại gây chuyện nên Vua Tự Đức ra lệnh khiến các quan 3 tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên không được để cho những kẻ khởi loạn ở 3 tỉnh kia vào đất đai ḿnh các quan phủ huyện biết, gặp phải bắt giao lại quan tỉnh, kẻ nào giấu giếm sẽ bị tội như chúng.
Bên Pháp đ́nh, th́ thượng thư Chasseloup Laubat cũng cố ư lấy trộm đất Nam kỳ 6 tỉnh nên năm 1865 đ̣i thiếu tướng De Lagrandiere về thương nghị.
Tổng đốc Vĩnh Long là Trương Văn Uyển ḍ xét biết t́nh h́nh, nên tâu lên vua Tự Đức, vua lại nghĩ phải có một người được người Pháp tín phục, trán thủ th́ các tỉnh phía Tây mới yên được. Triều thần lại cử Phan Thanh Giản. Vua bèn sai ông giữ Hàm hiệp biện bộ Hộ sung chức kinh lược ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
Năm Bính Dần Tự Đức 19 (1866) suư phủ Sài G̣n phái tàu đến cửa Thuận An đưa thư nói rằng 3 Vĩnh, An, Hà, địa thế xa cách, không tiện cho ta, tàu cướp qua lại, không tiện cho họ, xin cho họ cái..... luôn để dẹp yên giặc dă mà ta cũng khỏi trả bạc nữa.
Tháng 9 một tên quan Pháp và Vial và một linh Pháp làm thông ngôn, Le Grand Delalyraye từ B́nh Định ra Kinh đô Huế đ̣i 3 tỉnh và dùng binh lực doạ. Vua và triều thần lại bàn, cuối cùng Viện cơ đề nghị rằng; nếu người Pháp dùng vũ lực chiếm 3 tỉnh ấy th́ ta cứ để họ làm, đừng chống cự lại, để đợi nhân dân 6 tỉnh nổi dậy, ta sẽ tùy cơ hành động.
Năm sau suư phủ Gia Định sai một trung tướng Huế, đ̣i số binh phí trả chậm và đ̣i nhường 3 phía Tây. Triều đ́nh ta không chấp thuận. Trong ấy ở Vĩnh Long, Phan Thanh Giản ra sức làm cho người Pháp tin vào ḷng thành thực của triều đ́nh và đề nghị với họ xin chuộc lại đất đai.
Năm 1867, Tự Đức 20, bên Pháp, Hải quân thiếu tướng Rigaulde Genouilly, người đánh Nam Kỳ đầu được lên làm Thượng thư bộ hải quân kiêm thuộc .... ra lệnh cho thiếu tướng Largandiere lấy nốt Nam... Ngày 20/6/1897 Lagrandiere thành Vĩnh Long sai người mời Phan Thanh Giản đến nói chuyện, lại đưa thư năm ngoái họ xin giao 3 tỉnh để hậu t́nh giao hiếu lâu dài, nhưng ta trở ngại, nên việc không thành, v́ thế người trong lục tỉnh thường thường trở ngạnh, đến nỗi nay phải dùng binh, thiệt có thương tổn đến t́nh giao hiếu hai nước. Quan kinh lược vội vàng cùng án sát Vơ Doăn Thành xuống tàu biện thuyết, nhưng bàn thế nào thiếu tướng cũng không nghe. Ông Phan Vẫn tuân theo lệnh bất đề kháng của triều đ́nh nên ông xin quân Pháp đừng nhiễu hại nhân dân, tiền lúa trong kho xin để quân ta coi sóc. Thiếu tướng thuận cho. Ông Phan vừa về th́ quân Pháp tiến theo bốn mặt vào thành Vĩnh Long chiếm cứ.
Thiếu tướng bèn chia binh thuyền sai trung tá Galey đến lấy tỉnh thành An Giang (20/5 Đinh Măo) và tỉnh thành Hà Tiên (ngày 25) quan ta đều không chống cự, các quan tỉnh đều đưa về tỉnh Vĩnh Long. Thiếu tướng sai người ra Huế báo cho triều đ́nh ta biết. Phan Thanh Giản đem tiền lúa kho hiện c̣n của 3 tỉnh trị giá 100 vạn đồng khấu số bạc bồi năm ấy cho người Pháp. Rồi ông cho các quan cộng sự đều rút ra B́nh Thuận hoặc ra Huế, chỉ để một ḿnh ông ở lại xử trí như một người chân chính có trách nhiệm.
Thành Vĩnh Long mất ngày 20/6/1867, ông Phan Thanh Giản ra sống tại một ngôi nhà tranh ở ngoại ô tỉnh thành, ông xếp các triều phục, ấn triện cùng 23 đạo sắc bằng vua phong và viết một lá sớ gửi lên vua Tự Đức; dịch ra sau: "Ngày nay gặp lúc khốn khó, việc dữ khởi ở trong nước, khi xấu xuất hiện ở biên thùy. Nam kỳ chốc lát đến như thế ấy, cái thế không thể ngăn trở được. Theo nghĩa làm tôi, tôi phải chết, không được lay lắt cầu sống mà để hổ thẹn cho vua. Hoàng thượng thấu suốt việc xưa, việc nay, xét rơ mối trị, mối loạn, người thân kẻ hiền cùng đồng ḷng giúp đỡ, kính cẩn phép trời, vỗ thương người cùng khổ, tính trước lo sau tuỳ nghi thay đổi, cái sức lực c̣n có thể làm được việc. Tôi sắp chết nghẹn ngào không biết nói ǵ, chỉ tuôn nước mắt, tỏ ḷng quyến luyến, trông mong khôn xiết".
Ông biết không mấy ai thông cảm cho hoàn cảnh và việc làm quá khó khăn của ông, nên ông viết bài thơ "Toán cầm":
Phả toái dạo cầm phùng dĩ hàn..
Tử kỳ bất tại đối thùy đàn.
Xuân phong mẵn diễn giai bằng hữu.
Dục mích tri âm nan thượng nan.
Nam Xuân Thọ dịch:
Tử kỳ chết mất đập đàn thôi..
Non nước c̣n ai những ngậm ngùi.
Bốn mặt gió xuân đều bạn cả.
Tri âm muốn kiếm lại không người
Ông bắt đầu tuyệt thực ngày 19/7/1867, ba người con cùng thân quyến khóc lóc xung quanh xin ông ăn uống. Ông bảo: Ta biết rơ cơ trời dẫu làm sao cũng không qua thiên ư định. Vậy khi ta thác rồi, ai nấy cứ an cư lạc nghiệp, lo việc học hành, không nên dục lợi cầu vinh mà làm những việc nhẫn tâm hại lư. Nay ta tuổi cao sức yếu thành ra kẻ vô dụng cho nước nhà, dẫu có thác cũng không đủ tổn hại cho quê hương, c̣n ta sống cũng như không, cũng không đủ lợi ích cho xứ sở. Hăy cố gắng học hỏi cho bằng người Âu tây, hăy ráng pḥ vua giúp nước, toan lo cho hết sức người, họa may sau này đặng vẻ vang cho Tổ quốc.
Ông mặc áo rộng, bịt khăn đen và ngồi xem sách, tuyệt thực, ông làm bài thơ tuyệt mệnh sau đây nói lên tâm trạng và việc làm của ông:
Thời trời đất lợi lại người ḥa.
Lâm trả ơn vua đền nợ nước.
Lên ghềnh xuống thác thương con trẻ
Cũng tưởng một lời an bốn cơi
Há dễ ngồi coi phải nói ra
Đành cam gánh nặng ruổi đường xa
Vượt biển trèo non cảm phận già.
Nào hay ba tỉnh lại chầu ba.
Lúc ông tuyệt thực có một số quan Pháp đến tham đem đồ ngon rượu tốt đến mời ông ăn uống, ông cương quyết từ chối và trả lại.
Tuyệt thực đến ngày 2/8/1867, hơn 15 ngày mà không chết, ông quyết định từ giă cơi đời bằng chén thuốc độc. Ông gọi bà con đến gần bên ông để ông trối lại những lời cuối cùng: Khi ta chết rồi phải đem linh cữu về chôn tại làng Bảo Thạnh, bên cạnh phần mộ của tổ tiên, c̣n tấm minh tinh (tấm triệu) hăy đề: "Đại nam hải như lăo thư sanh tánh Phan Chi Cữu (Quan tài họ Phan góc biển Đại nam) đồng thời cũng lấy câu bia ghi mộ". Có người hỏi tại sao không đề chức tước, ông đáp: "Những hạng thường nhơn hay cầu chức không danh, ta xem sự ấy là một việc hổ then". Ông cũng cho thêm 3 con "Mấy bộ sách của ta để lại, đó là sự nghiệp quư báu, chúng bay phải giữ ǵn, ráng học hành và đừng làm một chức quan quyền ǵ hết, Anh em nên ăn ở thuận ḥa, nhất là phải thương mến quê hương dân tộc". Và chừng c̣n sợ con cháu mau quên, ông lấy viết bài thơ chữ Hán sau đây:
Bạng duật tương tŕ ngư ông Đắc Lợi
Vạn vật nguyên lại lưỡng bất can
Chi nhân ẩm trác khởi tranh đoàn
Vân cầm tráng chí hà tu nhượng
Thủy cáp hùng tâm bất khảng khoan
Nhai khẩu bất như giam khảu ổn
Nhập đầu sanh giác xuất đầu nan
Tảo chi đắc lợi quy ngư phủ
Vân thủy phi hiềm các tự an.
Vũ Trung dịch:
Trai c̣ tranh nhau, ông cầu được lợi
Trời đất sinh ra vốn khác ḷng
Chỉ v́ tham miếng phải giằng co
C̣ khoe dài mỏ chi mà nhịn
Trai cậy dầy mu chả nói cho
Mở miệng không bằng hóa ổn.
Vương đầu mới biết gỡ thêm lo.
Sớm hay lo dạ ông câu cá.
Bay tít mây xanh lặn nước ṃ.
Phan Thanh Giản quay mặt về phía Bắc, lạy vua 5 lạy rồi ngồi xếp bằng, mắt dưng dưng đôi ḍng lệ, trước sự chứng kiến của gia đ́nh, ông nâng chén thuốc độc uống cạn. Ông mất năm 72 tuổi.
Một vị thượng quan, trải qua 3 triều vua Nguyễn, ông đă hiểu cái văn minh và sức lực của người Tây, ông biết rằng nếu dùng vũ lực th́ không đánh nổi mà nên chuyển hướng ngoại giao, nghị ḥa mà cải cách Duy Tân nhưng vua và triều thần vẫn cứ khư khư thủ cựu cho ḿnh là giỏi, không chịu nghe ai, thậm chí sau này, lúc đi sứ ở Pháp về phái đoàn nói ở bên Pháp có thứ đèn không cần dầu cũng sáng, nhà vua và đ́nh thần cho là nói đề cao bọn Tây di "Đăng vô du hỏa bất sinh" đèn không dầu th́ lửa lấy đâu mà sáng(b) đă không nghe mà mỗi lần thất bại gặp khó khăn, lại đưa ông làm bung xung, đưa đầu chịu báng, để trút trách nhiệm mất 6 tỉnh Nam Kỳ. Vua Tự Đức Dụ rằng: (Dụ năm 1868).
"Sáu tỉnh Nam kỳ ban đầu v́ Nguyễn Trị Phương, Tôn Thất Cáp, Phạm Thế Hiển, Nguyễn Bá Nghi tiễu pḥng không hết sức, rồi đến Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp nghị ḥa khinh bỏ, sau khi Phan Thanh Giản, Trương Văn Uyển, Nguyễn Hữu Cơ và Trần Hoàn Nhơn tuần nhác nhớn nên đến nỗi mất cả 6 tỉnh" rồi định tội 2 ông Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp đều truy đoạt chức hàm, đục tên trong bia tiến sĩ, ghi tội trảm giam hậu đời đời - làm vua một nước, không tự thấy trách nhiệm của ḿnh mà lại đổ tội cho kẻ bề tôi. Sau này mất luôn cả Bắc Kỳ, Tự Đức c̣n sống không biết luận tội về ai!
Đến năm Bính Tuất (1886) vua Đồng Khánh mới khôi phục nguyên hàm cho hai ông.
Hai người con ông là Phan Liêm và Phan Tôn về sau cũng lănh đạo phong trào chống Pháp ở Vĩnh Long, Sadec, Trà Vinh, Bến Tre. Sau thất bại hai ông lại ra Bắc Kỳ theo ông Nguyễn Tri Phương.