Lý Thần Tông
Lý Thần Tông | |
---|---|
Vua Việt Nam (chi tiết...) | |
Hoàng đế nhà Lý | |
Trị vì | 1127 - 1138 |
Tiền nhiệm | Lý Nhân Tông |
Nhiếp chính | Thái sư Lê Bá Ngọc |
Kế nhiệm | Lý Anh Tông |
Thông tin chung | |
Thê thiếp | Lệ Thiên hoàng hậu Linh Chiếu hoàng hậu |
Tên húy | Lý Dương Hoán (李陽煥) |
Niên hiệu | Thiên Thuận (天順 1128-1132) Thiên Chương Bảo Tự (天彰寶嗣 1133-1138) |
Thụy hiệu | Thuận Thiên Quảng Vận Khâm Minh Nhân Hiếu hoàng đế 順天廣運欽眀仁孝皇帝 |
Miếu hiệu | Thần Tông (神宗) |
Triều đại | Nhà Lý |
Thân phụ | Cung hoàng đế |
Thân mẫu | Chiêu Hiến hoàng hậu |
Sinh | tháng 6, 1116 Sùng Hiền hầu phủ đệ |
Mất | 31 tháng 10, 1138 Vĩnh Quang điện, Thăng Long |
An táng | Thọ Lăng |
Tôn giáo | Phật giáo |
Lý Thần Tông (chữ Hán: 李神宗; tháng 6, 1116 - 31 tháng 10, 1138[1]), là vị Hoàng đế thứ 5 của triều đại nhà Lý, trị vì 10 năm (1127 - 1138).
Xem xét trong cuộc đời và tư cách của Lý Thần Tông, có thể thấy ông là vị vua tuy có chút lòng vì cơ nghiệp nước nhà, nhưng có thể vì lên ngôi vì lúc nhỏ, nên khi lớn lên vua lại ham việc hưởng lạc, ưa điềm lành, sinh hoạt trong cung không được điều độ nên mới dẫn đến cái chết khi còn quá trẻ. Thần Tông tuy không phải là một ông vua nhu nhược hay hôn ám, nhưng cũng chưa thể gọi là tốt lắm. Điều may mắn là dưới thời ông, cơ nghiệp nhà Lý vẫn vững bền qua đến thời Lý Anh Tông, điều đó một phần vì ông thừa hưởng sự thịnh thế của thời tiên hoàng Lý Nhân Tông, một phần vì trong triều còn có người giỏi giúp rập, mà bản thân vua cũng không quá mê muội.
Mục lục
Thân thế[sửa | sửa mã nguồn]
Lý Thần Tông, tên thật là Lý Dương Hoán (李陽煥), sinh vào tháng 6 năm Bính Thân (1116), là con trai của Sùng Hiền hầu - em trai của vua Lý Nhân Tông, tức là cháu gọi Nhân Tông bằng bác.
Giai thoại dân gian coi Lý Thần Tông là hậu thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư, quyển III ghi lại việc Từ Đạo Hạnh thoát xác tại chùa núi Thạch Thất năm 1116, ngay trước khi Lý Dương Hoán ra đời. Người xưa cho rằng vì Lý Nhân Tông không có con nên Từ Đạo Hạnh đầu thai làm con trai Sùng Hiền hầu để duy trì sự nghiệp của nhà Lý.
Khi được rước vào hoàng cung, ông được Thần phi nuôi dưỡng.
Cai trị[sửa | sửa mã nguồn]
Tháng Giêng, năm Mậu Thân (1128, tôn dưỡng mẫu là Thần phi, cung phi của Tiên đế Nhân Tông, làm Hoàng thái hậu. Đổi niên hiệu, đại xá thiên hạ.
Tháng Giêng, ngày Giáp Ngọ, năm Kỷ Dậu (1129), Thần Tông tôn cha đẻ là Sùng Hiền hầu làm Thái thượng hoàng, sinh mẫu Đỗ thị làm Hoàng thái hậu ở Động Nhân cung[2].
Trước lúc lâm chung, Nhân Tông ủy thác các đại thần giúp thiếu đế gồm Thái sư Lê Bá Ngọc (黎伯玉), Thái phó Dương Anh Nhĩ (杨英耳), Gián nghị đại phu Mâu Du Đô (缪攸度), Điện tiền chỉ huy sứ Lý Sơn (李山),... đều là những người có năng lực, được Nhân Tông tin tưởng giao trọng trách nên thời kỳ Thần Tông cai trị, nước Đại Việt vẫn giữ được ổn định.
Ông thường tìm kiếm những con vật lạ trong thiên hạ làm sở thích. Phàm ai có hươu trắng, hươu đen hay chim sẻ trắng, rùa trắng... đều đem dâng vua cả. Lúc ấy, có Đỗ Khánh là lính ở Tả Vũ Tiệp đem dâng con cá xương và con cá công sắc vàng. (Cá xương là một loại cá biển, cũng gọi là cá hầu. Cá công cũng ở biển, còn gọi là cá chiết, trông gần giống như con cua). Ông cho đấy là điềm lành, bèn xuống chiếu cho bề tôi chúc mừng. Cáp môn sứ là Lý Phụng Ân nói rằng[2]:
- "Cá là vật nhỏ mọn mà bệ hạ đã lấy làm điềm lành, vậy nhỡ sau này có người đem tới dâng con lân con phượng thì bệ hạ sẽ làm sao?"
Bởi lời ấy, việc này mới thôi.
Tháng 8 năm 1132, quân Chân Lạp và Chiêm Thành vào cướp phá Nghệ An. Thần Tông sai quan Thái úy Dương Anh Nhị đánh thắng được quân hai nước. Sang năm 1134, hai nước phải đến tiến cống[3].
Tháng 9 năm 1136, tướng Chân Lạp là Tô Phá Lăng lại mang quân vào cướp phá Nghệ An. Thần Tông sai quan Thái phó là Lý Công Bình đi đánh bại quân Chân Lạp.
Vua Thần Tông đại xá cho các tù phạm và trả lại ruộng đất mà đã tịch thu của quân dân trước đó. Ông cũng thực hiện chính sách ngụ binh ư nông, cho binh lính thay phiên nhau cứ sáu lần một tháng được về làm ruộng. Vì thế, việc sản xuất nông nghiệp của Đại Việt phát triển[4].
Giai thoại[sửa | sửa mã nguồn]
Tương truyền năm Thần Tông 23 tuổi (1138), bỗng nhiên hóa thành chúa sơn lâm (trước đó Vua thấy ngứa ngáy khắp cả mình mẩy, càng gãi bao nhiêu thì lông càng mọc bấy nhiêu), ngồi xổm chụp người, cuồng loạn, gầm gừ đáng sợ. Triều đình phải làm cũi vàng nhốt Vua trong đó. Khi ấy có đứa bé ở Chân Định hát rằng:
- Nước có Lý Thần Tông,
- Triều đình muôn việc thông.
- Muốn chữa bệnh thiên hạ,
- Cần được Nguyễn Minh Không.
Triều đình sai quan chỉ huy đi đón sư Nguyễn Minh Không. Đến am, sư cười bảo: "Đâu không phải là việc cứu cọp đó ư?" Quan chỉ huy hỏi: "Sao thầy sớm biết trước?" Sư bảo: "Ta đã biết việc này trước ba mươi năm". Sư đến triều vào trong điện ngồi, lên tiếng bảo: "Bá quan đem cái đảnh dầu lại mau, trong đó để một trăm cây kim, và nấu cho sôi, đem cũi vua lại gần đó." Sư lấy tay mò trong đảnh lấy một trăm cây kim găm vào thân vua, nói: "Quí là trời". Tự nhiên lông, móng, răng đều rụng hết, thân vua hoàn phục như cũ. Vua tạ ơn sư một ngàn cân vàng và một ngàn khoảnh ruộng để hương hỏa cho chùa, ruộng này không có lấy thuế.
Về việc này, Đại Việt sử ký toàn thư, quyển III không nhắc đến việc hóa hổ mà chép như sau:
- [Năm 1136] Vua bệnh nặng, chữa thuốc không khỏi. Nhà sư Minh Không chữa khỏi, phong làm quốc sư. Tha thuế dịch cho vài trăm hộ [ban cho Minh Không]. (Tục truyền khi nhà sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm đem thuốc niệm thần chú rồi giao cho học trò là Nguyễn Chí Thành tức Minh Không, dặn rằng 20 năm sau nếu thấy quốc vương bị bệnh lạ thì đến chữa ngay, có lẽ là việc này).
Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục cũng chỉ ghi vắn tắt việc Lý Thần Tông "có tật chữa lâu không khỏi, sau nhờ nhà sư Minh Không chữa được".
Qua đời[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 31 tháng 10, 1138, Lý Thần Tông băng ở điện Vĩnh Quang, trị vì được 10 năm, thọ 23 tuổi. Thụy hiệu của ông là Thuận Thiên Quảng Vận Khâm Minh Nhân Hiếu hoàng đế (順天廣運欽眀仁孝皇帝).
Trước lúc lâm chung, thiếp yêu của ông là Cảm Thánh phu nhân (感聖夫人) vì muốn lập con mình là Lý Thiên Tộ (李天祚) làm Thái tử. Nhưng ông đã lập Lý Thiên Lộc (李天祿), con của 1 cung nhân làm Thái tử. Phu nhân bèn cùng em gái là Phụng Thánh phu nhân (奉聖夫人) khóc lóc xin Thần Tông đổi ý, ông vì quá yêu mà chấp thuận, giáng Thiên Lộc làm Minh Đạo vương (明道王).
Sau khi Thần Tông qua đời, Thái tử Lý Thiên Tộ lên kế vị, tức Lý Anh Tông. Nhà Lý tiếp tục thời gian thịnh trị.
Gia quyến[sửa | sửa mã nguồn]
- Thân phụ: Cung hoàng đế (恭皇帝).
- Thân mẫu: Chiêu Hiến hoàng hậu Đỗ thị (昭憲皇后杜氏, ? - 1147).
- Hậu phi:
- Lệ Thiên hoàng hậu Lý thị (儷天皇后李氏), con gái Lý Sơn (李山), không rõ kết cục, có thể mất trước khi Thần Tông băng.
- Linh Chiếu hoàng hậu Lê thị (靈詔皇后黎氏, ? - 1161), nguyên là Cảm Thánh phu nhân (感聖夫人).
- Phụng Thánh phu nhân Lê thị (奉聖夫人黎氏, 1108 - 1171), em gái Linh Chiếu hoàng hậu.
- Minh Bảo phu nhân Lê thị (明寶夫人黎氏).
- Nhật Phụng phu nhân Lê thị (日奉夫人黎氏).
- Chương Anh phu nhân Lý thị (章英夫人李氏).
- Hậu duệ:
- Minh Đạo vương Lý Thiên Lộc (明道王李天祿), sinh năm 1132.
- Lý Anh Tông Lý Thiên Tộ (李天祚), mẹ Linh Chiếu hoàng hậu.
- Một hoàng tử không rõ tên, sinh năm 1137.
- Một hoàng nữ chết sớm, sinh năm 1132.
- Thụy Thiên công chúa (瑞天公主), sinh năm 1137.
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Ngày tháng năm mất chép theo Đại Việt sử ký toàn thư. Đại Việt sử lược chép là mất tháng 9 năm 1137.
- ^ a ă Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 3
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênVSL
- ^ Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, sách đã dẫn, tr 80
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
|