Chùa Xuân Lũng
Chùa Phổ Quang
Chùa Phổ Quang - Xuân Lũng - Lâm Thao - Phú Thọ |
|
Tổng quan
Chùa Xuân Lũng (còn gọi là chùa “ Phổ Quang” tọa lạc ở xóm Chùa, xã Xuân Lũng, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, chùa được khởi dựng vào thời Lý – Trần
Chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu vào năm 1626, và gần đây nhất là năm 1997. Chùa có gác chuông 2 tầng, tám mái, nhà bia ở hai bên sân, tòa Thiêu hương, tòa Thượng điện, đều là những kiến trúc cổ xưa, hoa văn chạm khắc tinh sảo.
Trong chùa còn lưu giữ nhiều đồ vật quý giá từ thời Trần còn sót lại; ở tòa Thượng điện là bệ đá Hoa sen được đặt cao ở vị trí chính giữa, đỡ bệ tượng Tam Thế. Bệ đá cấu tạo theo hình chữ nhật cao 3,2m kiến tạo bằng 52 phiến đá xanh ghép lại. Hoa văn trang trí theo các chủ đề: cá hóa rồng, độc long, sư tử vờn hoa, mặt trời tia sáng. . .đều là những tuyệt tác nghệ thuật chạm khắc đá cổ. Đặc biệt là niên đại tạo tác bảo vật bệ đá này còn rõ ràng đến nay, sau 7 thế kỷ tồn tại, từ đời vua Trần Phế Đế, năm thứ X niên hiệu Xương Phù (1386).
(Nguồn: vuonhoaphatgiao.com)
Toạ độ
Hình ảnh
[xem cả trang] [Google Images]
Chùa Phổ Quang - Xuân Lũng - Lâm Thao - Phú Thọ (mỗ chụp vội trưa ngày 6/8/2023) - Nay đã thành dĩ vãng, tiếc xót cho một di sản, ngôi cổ tự gắn với danh nhân Phạm Sư Mạnh đời Trần!
Xin giới thiệu bản dịch toàn văn văn bia chùa do tôi thực hiện.
Mặt trước:
Bia chùa Phổ Quang
Tín quan Phú Xuyên hầu Nguyễn Hữu Dũng, sãi phủ Nguyễn Văn Vị tự Đức Lương hiệu Pháp Hải, Địch Vũ bá Nguyễn Văn Hiệu và các thái ông, lão vãi ở xã Xuân Lũng huyện Sơn Vi phủ Lâm Thao, trùng tu các tòa thượng điện, thiêu hương, tiền đường, hậu đường, tam quan, phòng oản, giếng cối, các vật đồ dùng trong kho,… chùa Phổ Quang, mọi thứ mọi nơi đều được hoàn thành tốt đẹp, bèn khắc bia ghi lại sự việc.
Ngày nay, chùa không phải là nơi tông miếu, mà là chốn danh lam cổ tích. Nay, các vị tín quan, sãi phủ, thấy các tòa thượng điện, thiêu hương, tiền đường, hậu đường, tam quan, phòng oản, giếng cối, các vật đồ dùng trong kho, ... các nơi của chùa Phổ Quang [đều] chưa được tôn tạo. Vào ngày 13 tháng giêng năm Bính Dần [1626], bèn cùng nhau phát tâm bồ đề, hưng công trùng tu, sửa sang tôn tạo. Nền móng đã xong xuôi hoàn tất, thềm chùa được tố hảo phong quang. Đến năm Mậu Thìn [1628], nghĩ thấy công đức thịnh vượng lớn lao, viên mãn hoàn hảo, chùa chiền thềm bậc trang nghiêm. Nay bèn khắc tạc văn bia, để truyền lại cho hậu thế. Lời minh văn rằng:
Chốn danh lam cổ tích,
Chùa tên gọi Phổ Quang.
Phía nam chầu Tản lĩnh,
Phía tây có Thao giang.
Đông núi cao chót vót,
Bắc trấn ngôi miếu cương.
Đất đúc hun tú khí,
Đời xuất bậc văn chương.
Nổi anh hùng hào kiệt,
Tài văn võ đống lương.
Các thềm bậc phải trái,
Đến trên dưới chung quanh.
Người xưa đã xây đắp,
Nay lại nối mở mang.
Có tín quan, sãi vãi,
Phát tâm để cúng dường.
Trùng tu ngôi chùa Phổ,
Nào thượng điện, thiêu hương.
Nào phòng oản, giếng cối,
Rồi tam quan, hậu đường.
Trong kho có đồ đạc,
Bên ngoài xây bệ tường.
Nền móng thêm sáng đẹp,
Chùa bệ được nghiêm trang.
Công đức đà viên mãn,
Phật giáng hiện trinh tường.
Tín quan cùng các sãi,
Sống lâu thọ vô cương.
Phúc lành cho con cháu,
Phúc lộc mãi thịnh xương.
Trải thiên thu vạn đại,
Toàn xã mãi an khang.
Ôi, thật tốt đẹp thay!
- Hưng công: Tín quan Phú Xuyên hầu Nguyễn Hữu Dũng, vợ là Nguyễn Thị Ngọc Đường hiệu Từ Quý, Nguyễn Thị Miễn, Nguyễn Thị Dậu.
Trùm sãi phủ Nguyễn Văn Vị tự Đức Lương hiệu Pháp Hải, vợ là Nguyễn Thị Đàm hiệu Từ Trung, Nguyễn Thị Lãng hiệu Từ Đoan.
Tín quan Địch Vũ bá Nguyễn Văn Hiệu, vợ là Lê Thị Hướng, Triệu Thị Sầm hiệu Từ Tiến, Nguyễn Thị Võng.
Sãi tổng Nguyễn Đức Chí tự Phúc Định hiệu Trí Minh, vợ là Đặng Thị Quyện hiệu Từ Sơn;
Nguyễn Đăng Khoa tự Phúc Toàn đạo hiệu Huyền Minh, vợ là Nguyễn Thị Thái hiệu Từ Thịnh;
Lưu Ngọc Luân tự Đức Hải, vợ là Nguyễn Thị Quán hiệu Từ Ân;
Câu đương Đào Hoành [Tài] tự Đạo An;
Nguyễn Nhật Minh tự Đức Tiên, vợ là Nguyễn Thị Ngoạn;
Nguyễn Đình Ngọ tự Phúc Cần, vợ là Nguyễn Thị Thường;
Nguyễn Văn Đề tự Phúc Khánh, vợ là Nguyễn Thị Mai;
Lê Tinh tự Phúc Tâm, vợ là Nguyễn Thị Luỹ, Nguyễn Thị Tùy;
[] [] [Lâm], [vợ là] Nguyễn Thị Ma hiệu Từ Đức [Nhân];
Triệu Ngọc Khê tự Phúc Trung, vợ là Nguyễn Thị Hệ hiệu Từ Hoà;
Nguyễn Hữu Thì, vợ là Nguyễn Thị Thiều hiệu Từ Thanh;
Phan Ngọc Chỉ tự Phúc Độ, vợ là Nguyễn Thị Quý, Nguyễn Thị Đôn;
Nguyễn Văn Ái tự Phúc Cường, vợ là Nguyễn Thị Quý, Nguyễn Thị Đương;
Nguyễn Cơ tự Phúc Thiện, vợ là Nguyễn Thị Thịnh;
Lê [Nhân] Duyên tự Phúc Thành, vợ là Nguyễn Thị Vinh hiệu Từ Sinh;
Nguyễn Văn Thư tự Phúc Thắng, vợ là Nguyễn Thị Phiên.
Lão vãi: Hoàng Thị Đoàn hiệu Từ Huệ, Đỗ Thị Vận hiệu Từ Chính, Nguyễn Thị Chuyên hiệu Từ Lan, Đào Thị Hoàng hiệu Từ Quảng, Nguyễn Thị Đặng hiệu Từ Xuân, Nguyễn Thị Nữ hiệu Từ Bi, Nguyễn Thị Lăng hiệu Từ Minh, Lê Thị Hiền hiệu Từ Hạnh, Ma Thị Nặng hiệu Từ Hoan, Nguyễn Thị Quy hiệu Từ Nguyên, Lê Thị Hiến hiệu Từ Vinh;
Nguyễn Duy Huệ, vợ là Nguyễn Thị Tín;
Nguyễn Thế Tắc, vợ là Nguyễn Thị Tập;
Sơn Tường xã Nguyễn Kim Đới tự Phúc [Nhân], vợ là Phạm Thị Các;
Nguyễn Nhân Cường, vợ là Triệu Thị Chính;
Nguyễn Thiện Mưu, vợ là Triệu Thị Vân;
Người xã Cẩm Thanh: Nguyễn Vĩnh Chân tự Đức Chính, vợ là Nguyễn Thị Động, Nguyễn Thị Luy; Nguyễn Duy Tinh vợ là Nguyễn Thị Mỹ;
Người xã Hy Cương: Sãi tổng Hoàng Chép tự Phúc Vinh, vợ là Hoàng Thị Bãi hiệu Từ Trúc; Hoàng Nhân Chính tự Đức Long, Hạ Thị Bằng hiệu Từ Mai;
Nguyễn Thuận tự Phúc Chính, vợ là Hà Thị Phú;
Người xã Tiên Cương: Lê Tất Thắng tự Đức Tiên hiệu Đạo Chính, vợ là Hoàng Thị Đại hiệu Từ Nhan, Hán Thị Vạn hiệu Từ Mỹ; Hoàng Dương tự Phúc Bảo, vợ là Lê Thị Để hiệu Từ Thiện; Hoàng Đoàn tự Đạo Ninh, vợ là Lê Thị Vân hiệu Từ An;
Các Sãi vãi:
Tạ Thị Kiệu hiệu Từ Duyên, Nguyễn Thị Kỳ hiệu Đạo Lan;
Người xã Hy Sơn: Đào Hữu Nghĩa tự Phúc Thịnh, vợ là Nguyễn Thị Miên hiệu Từ Hương; Nguyễn Văn Gia tự Phúc Nghĩa, vợ là Nguyễn Thị Lận;
Xã Triền Áo: Phạm Bá Quỹ tự Phúc Chính, vợ là Nguyễn Thị Chiếu hiệu Từ Mỹ;
Xã Vực Trường: Lê Văn Đĩnh, vợ là Nguyễn Thị Thạch hiệu Từ Đạo;
Xã Tiểu Hoàng huyện Chân Định: Vũ Ngọc Xán tự Phúc Hạnh.
Tín thí người châu Phụng Kỳ huyện Phúc Lộc là Ngô Thị Tín hiệu Từ Xuân; Nguyễn Hào tự Phúc Sơn, vợ là Nguyễn Thị Thái;
Xã Sơn Thị: Nguyễn Thị Chửng hiệu Từ Dung.
- Hưng công làm mới 13 pho tượng Phật là: Nguyễn Đăng Khoa tự Phúc Toàn đạo hiệu Huyền Minh, vợ là Nguyễn Thị Thái hiệu Từ Thịnh.
Ngày mồng 1 tháng 6 năm Mậu Thìn niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 [1628] khắc bia.
Giám sinh Nguyễn Thừa Bật tự Tá Thì hiệu Tĩnh Hiên Tiên sinh người bản xã soạn.
Trụ trì nột tăng tự Đạo Phong hiệu Chân Phúc Mỹ đốt hương.
Câu kê, tước Xuân Dương nam Nguyễn Thiện Chính viết chữ.
Mặt sau:
Bia chùa Phổ Quang
Một mình một ngựa rong ruổi khắp núi sông,
Thần mưa, thần gió quét sạch khí độc lam chướng.
Phong tục lẫn với Trì Bàng cùng Bặc Đạo,
Đất đai tiếp giáp với Thiện Xiển và Vân Nam.
Lòng son tóc bạc gần gũi với chín cửa trời,
Sông núi điệp trùng ở ba quận vùng biên viễn.
Ta vì triều đình đến đây để thăm hỏi nỗi khổ của dân,
Dẹp trừ tệ sâu mọt đục khoét và trừ bỏ lũ gian tham.
Thơ cổ
Ngày tháng 4 năm Đại Trị thứ 9 [1366]
Nạp ngôn, Phạm Sư Mạnh hiệu Hiệp [Thạch] ghi.
Chùa Phổ Quang [xã] Xuân Lũng huyện Sơn Vi phủ Lâm Thao khởi tạo thượng điện, thiêu hương, tiền đường, tô đắp Phật tượng, một chiếc án, bên ngoài làm 3 gian phòng oản, 1 ngôi quán chợ, đều lợp ngói đã hoàn thành, vì vậy tạc bia.
- Hưng công:
Tín quan Thần Vũ tứ vệ quân vụ sự Tham đốc, tước Phú Xuyên hầu Nguyễn Hữu Dũng tự Đức Mậu, vợ là Nguyễn Thị Ngọc Đường hiệu Từ Quý, Nguyễn Thị Dậu hiệu Từ Quang, Nguyễn Thị Miễn;
Trùm Sãi phủ Nguyễn Văn Vị tự Đức Lương hiệu Pháp Hải, vợ là Nguyễn Thị Đàm hiệu Từ Trung, Nguyễn Thị Lãng hiệu Từ Đoan;
Thần Vũ tứ vệ quân Tham đốc, tước Địch Vũ hầu Nguyễn Văn Hiệu, vợ là Lê Thị Ngọc Hồi, Triệu Thị Sầm hiệu Từ Tiến, Nguyễn Thị Doanh hiệu Từ Mẫn, Nguyễn Thị Võng;
Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ ty Đô chỉ huy sứ, tước Lũng Tây hầu Nguyễn Hữu Lộc, vợ là Nguyễn Thị Căn, Nguyễn Thị Canh, Nguyễn Thị [Loan]; Dĩnh Tuyền bá Nguyễn Hữu [Dữ], vợ là Hoàng Thị Dương, Nguyễn Thị [Điêu/Đeo];
Sãi huyện Nguyễn Đăng Khoa (tự Phúc Toàn đạo hiệu Huyền Minh, vợ là) Nguyễn Thị Thái (hiệu Từ Thịnh);
Sãi tổng Nguyễn Đức Chí (tự Phúc Định hiệu Trí Minh), vợ là Đặng Thị Quyện (hiệu Từ Sơn);
Lưu Ngọc Luân (tự Đức Hải hiệu Huyền Đạt), vợ là Nguyễn Thị Quán (hiệu Từ Ân);
Nguyễn Như Xuyên (tự Phúc Tân), vợ là Phạm Thị Quyện;
Tước Đô Lộc bá là Nguyễn Thừa Hữu (tự Phúc Tiên, vợ là) Nguyễn Thị Ngoạn;
Câu đương sãi Lê Tinh (tự Phúc Tâm, vợ là) Nguyễn Thị Luỹ (hiệu Từ Tường);
Nguyễn Văn Đề (tự Phúc Khánh);
Phan Ngọc Chỉ (tự Phúc Độ), vợ là Nguyễn Thị Quý, Nguyễn Thị Điên;
Triệu Ngọc Khê (tự Phúc Trung hiệu Minh Nghị, vợ là) Nguyễn Thị Hệ (hiệu Từ Hoà);
Lê Nhân Duyên (tự Phúc Thành), vợ là Nguyễn Thị Vinh (hiệu Từ Nhiên);
Nguyễn Kim Đới (tự Phúc Nhân), vợ là Nguyễn Thị Các (hiệu Từ Bản);
Nguyễn Văn Ái (tự Phú Cường), vợ là Nguyễn Thị Quý;
Nguyễn Văn Thư (tự Phúc Thắng, vợ là) Nguyễn Thị Phiên;
Nguyễn Đức Nho (Tự [] []), vợ là Triệu Thị Biện;
Nguyễn Hào (tự Phúc Sơn), vợ là Nguyễn Thị Phượng;
Nguyễn Nhân Cường (tự Phúc Vạn), vợ là Triệu Thị Chính.
Nguyễn Đức Hiền (tự Phúc Thuần, vợ là) Lưu Thị Thiềm.
Câu kê, Xuân Dương nam Nguyễn Thiện Chính viết chữ.
Lão vãi:
Nguyễn Thị Tiên (hiệu Từ Tân); Nguyễn Thị Nữ (hiệu Từ Bi); Nguyễn Thị Đặng (hiệu Từ Xuân); Nguyễn Thị Chủng (hiệu Từ Dung); Lê Thị Hiền (hiệu Từ Hạnh); Hoàng Thị Đoàn (hiệu Từ Huệ); Đỗ Thị Vận (hiệu Từ Chính); Nguyễn Thị Thiều (hiệu Từ Thanh);
[] [] [Lâm], [vợ là] Nguyễn Thị Má (hiệu Từ Đức); Nguyễn Thị Chuyên (hiệu Từ Lan); Ma Thị Nặng (hiệu Từ Hoan); Nguyễn Thị Mai (hiệu Từ Hoa); Nguyễn Thị Khuyến (hiệu Từ Thiện); Đào Thị Hoàng (hiệu Từ Quảng); Lê Thị Hiến (hiệu Từ Vinh); Nguyễn Thị Thường (hiệu Từ Duyên);
Người xã Triền Áo huyện Tam Nông là Phạm Bá Quỹ (tự Phúc Chính), vợ là Nguyễn Thị Chiếu (hiệu Từ Mỹ);
Lê Văn Đĩnh, vợ là Nguyễn Thị Thạch (hiệu Từ Đạo, người xã Vực Trường);
Phạm Thị Nhiên (hiệu Từ [], người xã Hạ []);
Ngô Thị Tín (hiệu Từ Nhân, người châu Phụng Kỳ huyện Phúc Lộc).
Người bản xã là Nguyễn Hữu Thạc tự Pháp Công hiệu Đức Thiệu, vợ là Nguyễn Thị Mai, công đức một thửa ruộng ở xứ Đồng Thưa.
Người bản xã là Nguyễn Như Sơn tự Phúc Hân đền một thửa ruộng ở xứ Đồng Dọc Cập(?).
Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ ty Đô chỉ huy Đồng tri Nguyễn Khánh Lai.
Tham đốc Phù Tây hầu Hoàng Văn [Đô], vợ là Vũ Thị Tuyên (người xã [] []);
Trụ trì bản tự tăng Nguyễn Hữu [Lâm] (tự Mậu [] hiệu Trí []).
Ngày lành tháng giữa xuân [tháng 2] năm Giáp Tuất, niên hiệu Đức Long hoàng triều muôn muôn năm, năm thứ 6 [1634].
Người dịch: ThS Dương Văn Hoàn (Viện Nghiên cứu Hán Nôm).
Bài viết
Bình luận
Lưu ý: chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung các bình luận của bạn đọc
|
|
Địa chỉ |
Unnamed Road, Xuân Lũng, Lâm Thao, Phú Thọ, Vietnam |
Thêm bởi |
admin |
Vào ngày |
2016-12-29 04:45:13 |
Các thành viên |
|
|
|
(5.46 km) |
(5.60 km) |
(5.61 km) |
(5.66 km) |
(5.70 km) |
(5.95 km) |
(9.22 km) |
(10.05 km) |
|