Wiki
Tất cả » Tư liệu Hán Nôm » Tấm bia "Lương công mộ chí" thời Lý (1161) »
Tải lại | Mở cửa sổ riêng

Tấm bia "Lương công mộ chí" thời Lý (1161)


Liên quan tới: Thanh Hoá

File đính kèm
  • HinhThaiChuNom_TKH.pdf  [842.32 KB]
  • Hôm nay tìm ra trong kho ảnh của EFEO bản dập một tấm bia ở Thanh Hóa, không ghi tên di tích nào, có lẽ phải là một tấm bia quan trọng. Gửi hình lên 1 group và được giúp đọc tên tấm bia là “Lương công mộ chí”:





    VIE08531-Asie-Asie-du-Sud-Est-Vietnam-Thanh-Hoa-province-Ha-Trung-district-Binh-Hoa_edited.jpg





    Tìm theo từ khóa đó trên google thì ra tài liệu này HinhThaiChuNom_TKH cho biết lai lịch về tấm bia:






    Năm 1930 tại Thanh Hóa M. Pajot phát kiến một tấm mộ bia gọi là “Lương công mộ chí” 良 公 墓 誌 . Hai năm sau túc là năm 1932 tấm mộ bia ấy do ông E.Gaspardone giải đọc và phát biểu nội dung trên trên học báo của Học viện Bác cổ Viễn đông (35). Căn cứ vào can chi trên tấm mộ bia ấy, E.Gaspardone đã suy luận rằng niên đại của tấm bia là năm Đại Định thứ 22 đời Lý Anh Tông 大 定 李 英 宗 tức năm 1161. Trong tấm bia ấy có nói “nam tứ nhân, nữ nhị nhân, nhất nam hộ xuất tam nam xá hộ tạo gia phú quý” 男 四 人 女 二 人 一 男 户 出 三 男 舍 户 造 家 富 貴 và theo lời giải thích của E.Gaspardone chữ 户 trong đoạn văn này là chữ viết tắc của chữ 護 và dịch âm là “hồ” như nói “vải hồ” hoặc “thầy hồ”. Lại trong một câu khác “ trú ư duyên khẩu hương đội lang uyển tự” 住 於 緣 口 鄉 隊 廊 苑 寺 thì chữ lang 廊 rõ rang là chữ giả tá để biểu ký âm “làng” trong tục ngữ . Tuy trong tấm bia này không thấy có chữ hình thanh, nhưng chúng ta cũng có thể minh chứng được là chữ Hán vẫn được dùng để biểu ký âm tục ngữ hồi giữa thế kỷ thứ XII. Kiểm điểm lại chúng ta thấy rằng những tục tự Quảng Tây được thu lục trong sách Lĩnh Ngoại Đại Đáp như đã tường thuật ở trên, thực ra chỉ là bài sao chép những chữ đã ghi trong cuốn Quế Hải Ngu Hành Chí của Phạm Thành Đại 范 成 大 ,và tác giả chỉ thêm vào ba chữ trong số mười ba chữ đó mà thôi. Nhưng điều đáng chú ý là Chu Khứ Phi tác giả Lĩnh Ngoại Đại Đáp đã chua thêm dưới mười ba chữ ấy rằng : “án Giao chỉ ngữ tự, tự hữu dị, duy Hoa tự bất tu dịch, hựu vị bắc vi sóc, nhơn tinh chí chi” 按 交 趾 語 字 字 有 異 唯 花 字 不 須 譯 又 謂 北 爲 朔 因 幷 誌 之. Đoạn văn này tuy rất giản dị nhưng đối với chúng ta là một sử liệu đáng quý. Soạn niên của Quế Hải Ngu Hành Chí là năm Thuần Hy thứ 2 (1175), còn soạn niên của Lĩnh Ngoại Đại Đáp là năm Thuần Hy thứ 5 (1178) đều vào mạc kỳ của triều Lý (10101225) và cách niên đại của tấm mộ bia “Lương công mộ chí” chỉ hơn mười năm.






    Như vậy là bia có niên đại năm Đại Định thứ 22 đời Lý Anh Tông 大 定 李 英 宗 tức năm 1161. Qủa là một tư liệu quý!