Đây là di sản UNESCO thứ 6 của Việt Nam; sau Vịnh Hạ Long, Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (di sản thiên nhiên), Quần thể di tích cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn (di sản văn hóa)
Vào hồi 20h30’ ngày 31/7/2010 theo giờ địa phương tại Brazil (tức 6h30’ ngày 1/8/2010 theo giờ Việt Nam), Ủy ban Di sản thế giới đã thông qua Nghị quyết công nhận Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là Di sản Văn hóa thế giới.
Năm 1010, Thái Tổ Lý Công Uẩn - vị vua đầu triều nhà Lý dời đô từ Hoa Lư về Đại La và bắt đầu công cuộc xây dựng một kinh đô mới với tên gọi Thăng Long. Thành Thăng Long đã là kinh đô của Đại Việt suốt từ thế kỷ 11 cho tới thế kỷ 18 qua các triều đại Lý - Trần – Lê. Nhưng trước đó, từ thế kỷ thứ 9, vùng đất Thăng Long, trước đó có tên là Tống Bình, rồi Đại La, đã là thủ phủ của An Nam dưới sự đô hộ của nhà Đường. Trong một khoảng thời gian ngắn ngủi giữa thời Trần và thời Lê, kinh đô Đại Việt được dời về Thanh Hóa bởi nhà Hồ (1400-1407). Từ triều đại Tây Sơn đến hết triều đại nhà Nguyễn, Thăng Long không còn là kinh đô nữa; kinh đô Đại Việt (Việt Nam) khi đó ở Phú Xuân (Huế). Từ năm 1945 đến nay, Thăng Long – Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam. Như vậy, dù có gián đoạn và trải qua nhiều thăng trầm lịch sử; song suốt chiều dài lịch sử 13 thế kỷ, Thăng Long – Hà Nội vẫn ghi dấu ấn là mảnh đất trung tâm chính trị - văn hóa của Việt Nam.
Mời các bạn xem một số hình ảnh về Hoàng thành Thăng Long - Di sản văn hoá mới được công nhận của Việt Nam.
|
Đoan Môn từ góc chính diện
|
|
Đoan Môn nhìn từ trong Cấm thành
|
|
Phần nền Đoan Môn được xây dựng thời Lê, phần lầu trên được bổ sung và tu sửa vào thời Nguyễn
|
|
Sân nền đá và gạch vồ thời Lê, con đường gạch hoa chanh thời Trần từ Đoan Môn tới Điện Kính Thiên được phát lộ năm 1999
|
|
Từ Đoan Môn nhìn ra cột cờ phía trước thành Hà Nội
|
|
Cột cờ nằm trên trục Bắc- Nam phía trước thành, được xây dựng năm 1812
|
|
Thềm điện Kính Thiên với đôi Rồng đá từ thời Lê
|
|
Một hố khảo cổ trong khu vực thành cổ, giữa Đoan Môn và Điện Kính Thiên, tiến hành năm 2009, phát hiện con đường lát gạch vồ thời Lê
|
|
Hậu Lâu (lầu công chúa) - kiến trúc đã được tu sửa nhiều lần
|
|
Cửa Bắc thành Hà Nội, kiến trúc cuối cùng trên trục thần đạo Nam - Bắc
|
|
Hai vết đạn quân Pháp bắn trên Cửa Bắc trong cuộc đánh chiếm thành Hà Nội ngày 25/4/1882.
|
|
Cửa Bắc thành Hà Nội, nơi ghi chứng tích chiến tranh và dấu ấn bi hùng của Thăng Long – Hà Nội.
|
|
Cổng vào khu thành cổ từ phía đông (đường Nguyễn Tri Phương)
|
|
Súng thần công đặt trước cổng khu thành cổ phía Tây (đường Hoàng Diệu)
|
Một số hiện vật khai quật trong khu vực khảo cổ học 18 Hoàng Diệu, Thành cổ Hà Nội và phụ cận:
|
Bệ chân cột thời Lý (thế kỷ 11-12), khai quật ở khu vực Hậu Lâu, năm 1998
|
|
Điêu khắc gốm, thời Lý (thế kỷ 11-12)
|
|
Chim phượng, thời Trần (thế kỷ 13-14)
|
|
Gạch vuông lát nền, thời Trần (thế kỷ 13-14)
|
|
Tượng linh thú, thời Lê (thế kỷ 17-18)
|
|
Điêu khắc gốm, khai quật năm 1996 tại hố khảo cổ 11 Lê Hồng Phong – phía Tây Nam thành Hà Nội
|
Hà Thành (thực hiện
|
Cửa Đoan Môn nhìn từ trong Cấm thành
|
Thành Thăng Long qua các triều đại Lý - Trần – Lê được liên tục được xây dựng và phát triển. Đó cũng là thời kỳ rực rỡ nhất của những triều đại trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Từ xưa, trong dân gian có lưu truyền câu: “Thăng Long phi chiến địa”, nghĩa là: Thăng Long không phái đất của chiến sự. Nhưng trong thực tế Kinh thành Thăng Long đã trải qua bao binh biến phù trầm, là chiến trường ác liệt của cả nội chiến và ngoại xâm, nhiều lần bị giặc chiếm đóng. Trong suốt thời gian từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 19, Thăng Long trải qua nhiều cuộc chiến, kinh thành đã bị phá hủy rất nhiều.
Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và lập nên nhà Nguyễn (1802), vua Gia Long định đô ở Phú Xuân như thời Tây Sơn. Lúc này, Thăng Long vẫn có tên là Thăng Long nhưng chữ “Long” nghĩa là Rồng (biểu tượng cho Vua) bị đổi thành chữ “Long” mang nghĩa khác là thịnh vượng, với ý rằng Vua không còn ở đó. Đồng thời, những gì còn lại của Hoàng thành Thăng Long qua các triều đại rực rỡ Lý - Trần – Lê đã bị chuyển vào Phú Xuân phục vụ cho việc xây dựng kinh đô của triều đại mới. Chỉ có một số ít kiến trúc như Điện Kính Thiên và Hậu Lâu được giữ lại làm hành cung cho vua Nguyễn khi ngự giá Bắc Thành. Năm 1805, nhà vua cho phá thành Thăng Long để xây dựng Bắc Thành theo kiểu thành Vauban - một kiểu thành quân sự đương thời của phương Tây, có quy mô nhỏ hơn thành Thăng Long nhiều lần. Năm 1831, vua thứ 2 nhà Nguyễn là Minh Mạng cho đổi tên Thăng Long thành tỉnh Hà Nội; Bắc Thành có tên là thành Hà Nội.
Sau khi Hà Nội trở thành nhượng địa của triều đình nhà Nguyễn cho Pháp (1888), người Pháp đã tiến hành xây dựng Hà Nội theo quy hoạch đô thị hiện đại. Tới năm 1897, thành Hà Nội bị phá gần hết, chỉ còn lại một số ít kiến trúc ở khu vực trung tâm.
Dẫu vậy, thì những kiến trúc và di vật ít ỏi còn lại vẫn chứng minh mạnh mẽ về những giá trị trường tồn của kinh thành Thăng Long suốt nghìn năm. Cũng vì sự giao thoa và chồng lấp của kiến trúc cùng các tầng văn hóa, sau này cái tên “Thành cổ Hà Nội”, hay “Trung tâm Hoàng thành Thăng Long” được hiểu là Thành Thăng Long dưới các thời Lý - Trần - Lê và Thành Hà Nội thời Nguyễn.
Hiện nay, khu vực di sản Hoàng thành Thăng Long đang được nghiên cứu, bảo tồn bao gồm khu di tích khảo cổ 18 Hoàng Diệu và khu Thành cổ Hà Nội
+ Khu vực khảo cổ 18 Hoàng Diệu được phát lộ năm 2002, với nhiều tầng di vật phong phú, liên tục; thể hiện rõ nét các giá trị văn hóa - lịch sử qua thời gian các triều đại. Tại đây những nhà nghiên cứu đã tìm thấy nhiều kiến trúc, điêu khắc bị chôn vùi dưới đất. Tất cả phản ánh cả một quần thể thống nhất, đa dạng và có giá trị cao về nghệ thuật. Tuy nhiên, do vẫn còn đang trong thời gian nghiên cứu thực địa và đưa ra giải pháp bảo tồn lâu dài; nên khu vực này chưa thể trở thành một trung tâm tham quan phổ biến.
+ Khu vực Thành cổ Hà Nội: Là khu trung tâm thành Hà Nội thời Nguyễn, trải dài theo trục Nam - Bắc của thành. Hiện nay, khu vực này còn có các di tích lộ thiên sau:
- Cột cờ (Kỳ đài): Được xây dựng cùng thành Hà Nội thời Nguyễn. Cột cờ nằm phía trước thành trên trục thần đạo, giữa 2 cửa Đông Nam và Tây Nam.
Đoan Môn: Là cổng chính ra vào Cấm thành của Hoàng thành Thăng Long. Đoan Môn được xây dựng từ thời Lý, nhưng kiến trúc Đoan Môn hiện nay là của thời Lê và sau này được tu sửa thêm vào thời Nguyễn.
- Thềm điện Kính Thiên: Điện Kính Thiên là cung điện trung tâm. Điện Kính Thiên được xây dựng thời Lê, trên nền cũ của điện Càn Nguyên, Thiên An thời Lý - Trần. Điện Kính Thiên đã bị phá hủy, chỉ còn lại thềm điện và đôi rồng đá.
- Hậu Lâu (Lầu công chúa): Thời Lê có tên gọi là Tĩnh Bắc lâu, đến thời Nguyễn gọi là Hậu điện. Đây là nơi ở của cung tần mỹ nữ theo vua từ Phú Xuân ra ngự giá Bắc Thành. Hậu Lâu đã bị hư hỏng nặng khi Pháp chiếm thành Hà Nội, và được người Pháp tu sửa như hiện nay.
- Cửa Bắc (Bắc Môn, Chính Bắc Môn): Là cổng thành Hà Nội phía Bắc. Cửa Bắc của thành Hà Nội thời Nguyễn được xây dựng trên chính Cửa Bắc Thành Thăng Long thời Lê. Khi người Pháp phá thành Hà Nội, họ đã giữ lại Cửa Bắc để làm đài quan sát, cùng với ý đồ phô trương sức mạnh quân sự với hai vết đạn đại bác bắn trên cổng khi chiếm thành Hà Nội.
Ngày 28/12/2007, Bộ Văn hóa - Thể thao – Du lịch đã ra quyết định (số 16/2007/QĐ/BVHTTDL) công nhận khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long (bao gồm khu Thành cổ Hà Nội và Khu di tích khảo cổ 18 Hoàng Diệu) là Di tích lịch sử kiến trúc - nghệ thuật Quốc gia.
Ngày 12/8/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định (Số 1272/QĐ-TTg) xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (đợt 1) đối với 10 di tích, danh lam thắng cảnh trên cả nước – trong đó có Di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội)
Và tới ngưỡng cửa của đại lễ 1.000 năm Thăng Long, Trung tâm Hoàng Thành Thăng Long đã trở thành Di sản Văn hóa thế giới. Những giá trị nổi bật toàn cầu của khu di sản này được ghi nhận bởi 3 đặc điểm nổi bật: Chiều dài lịch sử văn hóa suốt 13 thế kỷ; Tính liên tục của di sản với tư cách là một trung tâm quyền lực, và Các tầng di tích di vật đa dạng, phong phú./.
Hà Thành
|