LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ (II. Quy thức lăng tẩm và vật liệu xây dựng)
II. Quy thức lăng tẩm và vật liệu xây dựng
II.1. Tên gọi
- Danh xưng chung: Có một chi tiết lịch sử thời Nguyễn mà một số nhà nghiên cứu thường nhắc tới, khi luận tội Lê Văn Duyệt, quần thần triều Minh Mạng đã gán cho ông tội “khi quân” vì đã dám “tiếm gọi mộ mẹ là lăng”. Điều đó chứng tỏ quy chế về cách dùng danh xưng chung chỉ lăng mộ thời kỳ này đã rất chặt chẽ. Chỉ có mộ của hoàng đế, hoàng hậu mới được gọi là lăng 陵hay sơn lăng山陵. Mộ của thân vương, phi, tần chỉ được gọi là tẩm 寢, còn của thần dân, không phân biệt giàu nghèo đều gọi là mộ 墓. Xem sách Đại Nam nhất thống chí, có thể thấy rõ, toàn bộ phần viết về lăng mộ các hoàng đế, hoàng hậu triều Nguyễn đều xếp chung trong phần Sơn lăng 山陵. Còn bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ thì dành hẳn một quyển Lăng tẩm 陵寢 (quyển 216) với 5 nội dung : Quy Chế, Lệnh Cấm, Xây Dựng, Quy Thức Viên Tẩm và Cây Trồng, để bàn về vấn đề này. Thời Tự Đức trở về sau, bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, có bổ sung thêm các quy định về viên tẩm, sinh phần, mộ cho các đối tượng là thân vương, quan lại.
Thực ra, quy chế về danh xưng lăng mộ đã có từ rất lâu đời và nó có nguồn gốc trực tiếp từ Trung Hoa. Theo Từ Nguyên từ điển: “ Thời Tần gọi mộ Thiên tử là Sơn 山, từ thời Hán về sau mới gọi là Lăng 陵”, các chữ Sơn lăng 山陵, Thọ lăng 壽陵, Lăng viên 陵園, Lăng tẩm 陵寢..cũng có nguồn gốc từ đó. Đến thời Minh-Thanh, các quy chế về lăng mộ của Trung hoa đã rất hoàn chỉnh. Các quy chế lăng mộ của triều Nguyễn đều tham khảo từ hệ thống quy chế này, dĩ nhiên cũng đã có những sự điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nước ta.
- Tên gọi riêng
Ngày nay chúng ta vẫn quen gọi lăng mộ vua chúa, hậu phi thời Nguyễn kèm theo niên hiệu, miếu hiệu, thậm chí cả theo tên huý của họ, như lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, lăng Tự Đức, lăng Thuận Thiên, lăng Từ Dũ, lăng Nguyễn Hoàng .vv.. . Thực ra, hầu hết các lăng này đều được đặt tên. Sách Đại Nam nhất thống chí (bản Duy Tân năm thứ 9) kê ra đến 30 lăng có tên gọi riêng. Thời chúa Nguyễn có 19 lăng là các lăng : Trường Cơ 長基, Vĩnh Cơ 永基 của chúa Nguyễn Hoàng và Hoàng hậu; Trường Diễn 長衍, Vĩnh Diễn 永衍 của chúa Nguyễn Phúc Nguyên và Hoàng hậu; Trường Diên 長延, Vĩnh Diên 永延 của chúa Nguyễn Phúc Lan và Hoàng hậu; Trường Hưng 長興, Vĩnh Hưng 永興, Quang Hưng 光興 của chúa Nguyễn Phúc Tần và hai Hoàng hậu; Trường Mậu 長茂, Vĩnh Mậu 永茂 của chúa Nguyễn Phúc Thái và Hoàng hậu; Trường Thanh 長清, Vĩnh Thanh 永清 của chúa Nguyễn Phúc Chu và Hoàng hậu; Trường Phong 長豐, Vĩnh Phong 永豐 của chúa Nguyễn Phúc Thụ (Trú) và Hoàng hậu; Trường Thái 長泰, Vĩnh Thái 永泰 của chúa Nguyễn Phúc Khoát và Hoàng hậu; Trường Thiệu 長紹 của chúa Nguyễn Phúc Thuần và lăng Cơ Thánh 基聖 của thân sinh vua Gia Long - ông Nguyễn Phúc Luân (Côn).
Thời vua Nguyễn có 15 lăng có tên gọi riêng là : lăng Thoại (Thụy) Thánh 瑞聖陵 của thân mẫu vua Gia Long; lăng Thiên Thọ (Thụ) 天授陵 của vua Gia Long và bà Thừa Thiên Cao hoàng hậu; lăng Thiên Thọ Hữu天授右 của bà Thuận Thiên Cao hoàng hậu; lăng Hiếu 孝陵của vua Minh Mạng; lăng Hiếu Đông 孝東陵 của bà Tá Thiên Nhân hoàng hậu; lăng Xương 昌陵 của vua Thiệu Trị; lăng Xương Thọ 昌壽陵 của bà Nghi Thiên Chương hoàng hậu; lăng Khiêm 謙陵 của vua Tự Đức; lăng Khiêm Thọ 謙壽陵 của bà Lệ Thiên Anh hoàng hậu; lăng An 安陵 của vua Dục Đức; lăng Bồi 培陵 của vua Kiến Phúc; lăng Tư 思陵của vua Đồng Khánh; lăng Tư Minh 思明陵 của bà Phụ Thiên Thuần hoàng hậu (tức bà Thánh Cung Nguyễn Thị Nhàn); lăng Tư Thông 思聰陵 của bà Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu (tức bà Tiên Cung Dương Thị Thục) và lăng Ứng 應陵 của vua Khải Định.
Về cách đặt tên riêng cho từng lăng của thời Nguyễn cũng thể hiện rất phức tạp. Các lăng thời chúa Nguyễn đều bắt đầu bằng chữ TRƯỜNG 長- dành cho chúa và chữ VĨNH 永- dành cho bà phi vợ chúa. Đây là cách thức đặt tên khá phổ biến của lăng mộ đế vương Trung Hoa. Nhưng từ các hoàng đế triều Nguyễn thì dường như không hoàn toàn theo một quy tắc chung nào cả, dù thực chất tên các lăng thời chúa đều được đặt dưới thời vua Nguyễn (năm Gia Long thứ 7-1808).
Cách đặt tên lăng thời các vua Nguyễn có lẽ chịu ảnh hưởng nhiều của cách đặt tên lăng thời Minh. Vua Gia Long chọn cho "ngôi nhà vĩnh cửu" của mình cái tên Thiên Thọ, đặt ngay trên ngọn núi cùng tên - đây cũng là tên cụm núi chính của quần thể "Thập Tam lăng 明十三陵" thời Minh. Tuy nhiên, thời Minh lại khởi đầu bằng Hiếu lăng 孝陵của người sáng lập ra triều đại - Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương - ở phía nam thành Phụng Dương, tỉnh An Huy (gần Nam Kinh); mười ba lăng còn lại, bắt đầu bằng Trường Lăng長陵 đều quy tập tại Bắc Kinh trong cụm "Thập Tam lăng". Theo chúng tôi, rất có thể vua Gia Long đã có ý đồ quy hoạch toàn bộ khu vực rộng lớn quanh Thiên Thọ Sơn 天授山làm nơi xây dựng lăng tẩm cho dòng họ Nguyễn, nhưng ý đồ này đã không được các vua Nguyễn về sau thực hiện.
Triều Nguyễn, sau Thiên Thọ lăng mới đến Hiếu lăng, rồi các lăng Xương, Khiêm, Bồi, Tư, An, Ứng. Từ tên gọi đến thứ tự cách đặt tên đều không rập khuôn bất cứ triều đại nào của Trung Hoa. Sự khác nhau nổi bật về tên gọi các lăng hoàng đế Nguyễn từ thời Gia Long trở về trước và từ thời Minh Mạng trở về sau là tên kép (Trường Cơ, Trường Thanh, Thiên Thọ...) và tên đơn (Hiếu, Xương, Khiêm, Bồi..), còn về tên lăng hoàng hậu thì không có gì khác biệt, đều dùng tên kép (Vĩnh Cơ, Vĩnh Thanh, Thiên Thọ Hữu, Hiếu Đông...). Tuy nhiên về cách bố trí và đặt tên lăng các hoàng hậu triều Nguyễn, từ Gia Long trở về sau cũng có sự thay đổi đáng chú ý: Nếu lăng vua Gia Long gọi là Thiên Thọ Lăng và lăng Hoàng hậu Thuận Thiên được đặt ở bên hữu (phía tây) lăng này, gọi là Thiên Thọ Hữu Lăng thì lăng Hoàng hậu của vua Minh Mạng lại được đặt ở bên tả (phía đông, dù ở cách khá xa) của Hiếu Lăng và được gọi là Hiếu Đông Lăng. Việc thay đổi này là sự điều chỉnh theo quy chế lăng thời Thanh.
Về thời gian đặt tên, trừ trường hợp lăng các chúa và phi mãi đến thời Gia Long mới được truy tôn, còn hầu hết các lăng hoàng đế, hoàng hậu triều Nguyễn, ngay sau khi lăng được xây dựng, triều thần sẽ họp bàn và dâng tên hiệu để vua chọn. Tuy nhiên, cũng có trường hợp đặc biệt như Khiêm lăng của vua Tự Đức, sau khi xây dựng gần 16 năm vẫn mang tên là Khiêm cung do chủ nhân của nó vẫn còn tại thế.
II.2. Quy mô, cấu trúc và vật liệu xây dựng
Triều Nguyễn có quy định khá cụ thể về quy mô, cấu trúc các loại hình lăng tẩm của hoàng gia. Về cơ bản, có thể chia thành 3 loại: 1-Lăng các chúa Nguyễn và phi ; 2-Lăng các vua Nguyễn và hoàng hậu; 3- Tẩm của các thành viên khác thuộc hoàng gia (hoàng tử, công chúa, thân vương, thân công, phi, tần, tiệp dư..). Dưới đây tôi sẽ đề cập cụ thể về quy mô, cấu trúc của từng loại hình.
II.2.1 Lăng các chúa Nguyễn
Do cùng được xây dựng lại dưới đầu triều Nguyễn nên quy mô, cấu trúc lăng các chúa Nguyễn và phi về cơ bản tương tự như nhau. Các lăng này đều phân bố ở phía tây, tây nam Kinh thành, dọc hai bờ sông Hương. Mỗi lăng đều có 2 lớp tường thành hình chữ nhật bao bọc, xây bằng đá núi, gạch vồ; trước mặt và sau lưng đều có bình phong xây gạch đá che chắn; bình phong sau bao giờ cũng gắn liền với lớp thành ngoài; bình phong trước thì dựng độc lập. Nấm mộ (gọi là Bảo phong) xây hình khối chữ nhật, giật 2-3 cấp; trước mặt Bảo phong có án bằng đá hoặc xây gạch. Tại các khu lăng thời chúa Nguyễn không thấy có công trình kiến trúc gỗ. Kích thước cụ thể của các lăng chúa Nguyễn như sau:
- Lăng Trường Cơ: tức lăng Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế-Nguyễn Hoàng 阮黃 (1525-1613). Lăng thuộc địa phận “xã La Khê, huyện Hương Trà” , nay là làng La Khê, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà. Nguyên trước “lăng ở núi Thạch Hàn, huyện Vũ Xương”, tỉnh Quảng Trị, về sau mới dời đến vị trí này. Lăng nằm bên tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông chừng 300m, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 10km đường chim bay về phía tây-nam. Lăng xoay mặt về hướng chính bắc. Lăng có hai vòng thành hình chữ nhật bao bọc. Vòng ngoài xây bằng đá bazan, phần mũ tường xây bằng gạch vồ. Chu vi :”36 trượng 9 thước 2 tấc ” (đo trên thực tế là 156,5m-sau đây các số liệu trong ngoặc đều là số đo thực tế của chúng tôi-PTH), thành “cao 6 thước 3 tấc” (260cm). Vòng trong xây hoàn toàn bằng gạch vồ, chu vi “16 trượng 4 thước 2 tấc”(69,5m), thành “cao 5 thước” (205cm). Mộ được xây bằng gạch vồ và vôi vữa. Mộ thấp, phẳng, xây làm 2 tầng, hình khối chữ nhật. Từ trên xuống: Tầng 1: rộng 172cm, dài 248cm,cao 25cm. Tầng 2: rộng 222cm, dài 303cm, cao 30cm. Trước mộ xây một hương án chân quỳ, cao 90cm, rộng 110cm, dài 214cm. Lăng trổ một cửa phía trước, sau cửa xây một bình phong, mặt trước bình phong trang trí long mã ghép sành sứ. Sau lưng mộ cũng có bình phong trang trí rồng.
-Lăng Trường Diễn: tức lăng của Hy Tôn Hiếu Văn Hoàng Đế-Nguyễn Phúc Nguyên 阮福源(1563-1635). Ở địa phận “núi xã Hải Cát, huyện Hương Trà”, nay là thôn Hải Cát, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà. Trước kia lăng ở Sơn Phận, huyện Quảng Điền, sau mới dời về đây. Lăng nằm ở phía tả ngạn sông Hương, cách bờ sông khoảng 350m, cách trung tâm thành phố Huế 6km đường chim bay về phía tây nam. Lăng xoay về phía nam. Lăng cũng gồm hai vòng tường thành, mô thức và vật liệu xây dựng tương tự như lăng Trường Cơ, nhưng vòng thành trong cũng xây bằng đá bazan, phần mũ xây gạch vồ. Vòng ngoài “chu vi 28 trượng 4 thước 2 tấc” (120,5m), “cao 6 thước 3 tấc”(250cm). Vòng trong “chu vi 15 trượng 7 thước 6 tấc”(66,9m), thành “cao 5 thước”(202cm). Mộ cũng được xây 2 bậc, kiểu thức tựa như mộ lăng Trường Cơ. Tầng 1: rộng 210cm, dài 322cm, cao 17cm. Tầng 2: rộng 259cm, dài 372cm, cao 23cm. Hương án trước mộ xây thấp. Bình phong hiện không còn thấy trang trí.
-Lăng Trường Diên: tức lăng của Thần Tôn Hiếu Chiêu Hoàn Đế Nguyễn Phúc Lan 阮福蘭(1601-1648). Ở địa phận “núi An Bằng, phủ Thừa Thiên”, nay thuộc thôn Kim Ngọc, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà. Lăng nằm bên tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông gần 2km, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 11km đường chim bay về phía tây nam. Lăng xoay mặt về hướng bắc. Kiểu thức xây dựng lăng mộ tương tự như hai lăng trên. Vòng ngoài “chu vi 29 trượng 3 thước 4 tấc”(124,5m), thành “cao 6 thước 3 tấc” (251cm). Vòng trong “chu vi 16 trượng 1thước”(68,3m). Thành “cao 5 thước” (198cm). Mộ 2 tầng: Tầng 1 rộng 170cm, dài 214cm, cao 27cm. Tầng 2: rộng 187cm, dài 310cm, cao 23cm.
-Lăng Trường Hưng: tức lăng của Thái Tôn Hiếu Triết Hoàng Đế Nguyễn Phúc Tần 阮福秦(1620-1687), dân gian quen gọi là lăng Chín Chậu. Lăng thuộc địa phận “núi xã Hải Cát, phủ Thừa Thiên”, nay là thôn Hải Cát, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, nằm ở tả ngạn sông Hương, cách bờ sông khoảng 800m, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 7km về phía tây nam. Lăng xoay mặt về hướng đông bắc. Lăng Trường Hưng mới được Nguyễn Phúc Tộc trùng tu năm 1996. Trong đợt trùng tu này có dựng thêm bia mộ bằng đá. Mặt trước bia đề dòng chữ Hán: “Thái Tông Hiếu Triết Trường Hưng Lăng 太宗孝哲長興陵”. Mặt sau có khắc tiểu sử và công trạng của chúa Nguyễn Phúc Tần bằng tiếng Việt. Mộ gồm 2 tầng, kiểu thức tương tự các lăng trên, nhưng trong đợt trùng tu vừa qua có làm 1 tầng dưới khá rộng. Tầng 1: rộng 193cm, dài 271cm, cao 22cm. Tầng 2: rộng 241cm, dài 326cm, cao 18cm. Tầng 3: rộng 345cm, dài 433cm, cao 7cm. Hai vòng thành bao quanh mộ có kiểu thức xây dựng tương tự các lăng vừa mô tả. Vòng ngoài “chu vi 25 trượng 9 thước 6 tấc” (210m), thành “cao 6 thước 3 tấc” (257cm). Vòng trong “chu vi 12 trượng 4 thước 3 tấc” (52,8m), thành “cao 5 thước” (197cm). Phía trước lăng, bên ngoài hai vòng thành có một khoảng sân nhỏ. Trên sân có xây 10 chiếc chậu để trồng hoa và cây cảnh (vốn xưa chỉ có 9 chiếc nên dân gian mới gọi là lăng Chín Chậu). Phía trước còn có hệ thống bậc cấp đi lên sân gồm 7 bậc. Bậc cấp này mới được tu sửa lại.
-Lăng Trường Mậu: tức lăng của Anh Tôn Hiếu Nghĩa Hoàng Đế Nguyễn Phúc Thái 阮福泰(1650-1691). Lăng thuộc địa phận “núi Kim Ngọc, huyện Hương Trà”, nay thuộc thôn Kim Ngọc, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, nằm ở phía tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông chừng 1,5km, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 11km đường chim bay về phía tây nam. Lăng nằm trên một quả đồi cao, xoay mặt về hướng bắc, trước mặt lăng có hồ rộng. Cả lăng và mộ đều có kiểu thức xây dựng tương tự các lăng mộ trên. Nghĩa lăng có 2 vòng thành bao bọc, mộ phẳng, thấp, chia làm 2 tầng. Vòng ngoài “chu vi 28 trượng 7 thước 2 tấc”(121,7m), thành “cao 6 thước 3 tấc” (250cm). Vòng trong “chu vi 15 trượng 8 thước 6 tấc” (67m), thành “cao 5 thước” (198cm). Mộ 2 tầng chữ nhật: Tầng 1: rộng 275cm, dài 350cm, cao 23cm. Tầng 2: rộng 534cm, dài 650cm, cao 18cm. Phía trước mộ có xây hương án, sau cổng có bình phong long mã tương tự các lăng trên.
-Lăng Trường Thanh: tức lăng của Hiển Tôn Hiếu Minh Hoàng đế Nguyễn Phúc Chu 阮福周(1675-1725). Lăng thuộc địa phận “núi Kim Ngọc, huyện Hương Trà”, nay thuộc thôn Kim Ngọc, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, nằm ở tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông 800m, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 10,5km đường chim bay về hướng tây nam. Lăng nằm trên đồi cao, xoay mặt về hướng đông nam, trước mặt là đồng ruộng. Kiểu thức lăng mộ tương tự các lăng mộ trên. Vòng thành ngoài của lăng “chu vi 28 trượng 4 thước 2 tấc”(120,5m), thành “cao 5 thước”(196cm). Vòng thành trong “chu vi 16 trượng 6 tấc”(70,3m), thành “cao 5 thước” (205cm). Mộ: Tầng 1: rộng 136cm, dài 212cm, cao 22cm. Tầng 2: rộng 193cm, dài 258cm, cao 27cm. Bình phong và hương án của lăng vẫn còn khá nguyên vẹn và rất đẹp.
-Lăng Trường Phong: tức lăng của Túc Tôn Hiếu Ninh Hoàng Đế Nguyễn Phúc Chú (Thụ) 阮福寿(1697-1738). Lăng ở “núi Định Môn, huyện Hương Trà”, nay thuộc làng Định Môn, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, ở tả ngạn dòng Tả Trạch, bên cạnh khe Trường Phong, cách bờ sông gần 2km, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 12km về phía nam. Lăng xoay mặt về hướng chính bắc. Mô thức xây dựng lăng tương tự các lăng chúa khác. Vòng ngoài “chu vi 28 trượng 2 thước”(121m), thành “cao 6 thước 3 tấc” (253cm). Vòng thành trong “chu vi 15 trượng 3 thước 2 tấc” (66,5m), thành “cao 5 tấc” (202cm). Mộ: Tầng 1: rộng 145cm, dài 251cm, cao 20cm. Tầng 2: rộng 210cm, dài 271cm, cao 22cm. Trước mặt lăng có một chiếc sân hình chữ nhật (7,5mx28m) và có hệ thống 18 bậc cấp để lên sân.
-Lăng Trường Thái: tức lăng của Thế Tôn Hiếu Vũ Hoàng Đế Nguyễn Phúc Khoát 阮福闊 (1714-1765). Lăng ở “núi La Khê, huyện Hương Trà”, nay là làng La Khê, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, nằm ở tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông khoảng 500m, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 10,5km đường chim bay về hướng tây nam. Lăng cũng nằm trên một quả đồi cao, xoay về hướng chính bắc, trước mặt là đồng ruộng. Mô thức xây dựng lăng không khác gì các lăng trên. Vòng thành bao bọc bên ngoài “chu vi 29 trượng 9 thước 2 tấc” (126,8m), thành “cao 6 thước 3 tấc” (253cm). Vòng trong “chu vi 14 trượng 4 thước 2 tấc” (61,2m), thành “cao 5 thước” (145cm). Hai tầng mộ: Tầng 1 rộng 250cm, dài 325cm, cao 28cm. Tầng 2 rộng 510cm, dài 610cm, cao 20cm. Bình phong trước mộ trang trí hai mặt, phía trước là con long mã, phía sau trang trí rồng, hiện còn khá nguyên vẹn và rất đẹp.
-Lăng Trường Thiệu: tức lăng của Duệ Tôn Hiếu Định Hoàng Đế Nguyễn Phúc Thuần 阮福淳(1754-1777). Lăng thuộc địa phận “núi La Khê, huyện Hương Trà”, nay thuộc làng La Khê, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà. Trước kia lăng ở “địa phận huyện Bình Dương đất Gia Định, năm Gia Long thứ 8, rước về để ở đấy”. Lăng nằm ở tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông chừng 400m, rất gần lăng Trường Cơ. Lăng xoay về hướng tây bắc. Kiểu thức xây dựng lăng mộ cũng tương tự như các lăng chúa khác. Vòng thành bao bọc bên ngoài lăng “chu vi 29 trượng 6 thước 6 tấc”(117,2m), thành “cao 6 thước 3 tấc” (251cm). Vòng thành trong “chu vi 15 trượng 2 tấc” (64,4m), thành “cao 5 thước” (chỗ cao nhất chỉ là 190cm). Mộ lăng Trường Thiệu cùng gồm 2 tầng. Tầng 1 rộng 190cm, dài 233cm, cao 28cm. Tầng 2 rộng 250cm, dài 305cm, cao 35cm.
- Lăng Cơ Thánh 基聖陵: Tức lăng của Hưng tổ Hiếu Khang Hoàng Đế Nguyễn Phúc Luân (Côn) 阮福淪, thân phụ của vua Gia Long. Lăng thuộc địa phận núi Hưng Nghiệp 興業山, thôn Cư Chính, huyện Hương Thủy, gần bờ sông Hương. Lăng này nguyên đã bị nhà Tây Sơn cho đào phá năm 1790, được xây dựng lại đầu thời Gia Long. Về cơ bản, cấu trúc lăng cũng như lăng các chúa Nguyễn, những trước mặt có bình phong lớn, sau đó là 3 tầng sân bái đình lát gạch Bát Tràng. Bảo thành chỉ có một lớp, hình chữ nhật (23,6m x 18,7m, cao 3,15m). Bảo phong hình khối chữ nhật, giật cấp 3 lớp (Tầng thứ nhất: dài 3,45m, rộng 3,1m, cao 0,12m; tầng thứ hai: dài 2,86m, rộng 2,5m, cao 0,28m; tầng trên cùng: dài 2,20m, rộng 1,96m, cao 0,34m). Trước sau Bảo thành có bình phong, trang trí rồng, lân rất sinh động. Nguyên xưa hai bên đông tây lăng còn có điện Canh Y 更衣殿下 và Thần Khố 神庫, đều 3 gian, nay không còn.
Nhận xét
- Nhìn chung về mặt quy mô và kiểu thức xây dựng, hệ thống lăng mộ các chúa Nguyễn đều tương tự như nhau. Mỗi lăng mộ đều có hai vòng thành hình chữ nhật bao bọc, vòng ngoài xây bằng đá bazan nhưng phần mũ thành xây bằng gạch vồ, vòng trong xây hoàn toàn bằng gạch (trừ lăng Trường Diễn). Chiều cao của các vòng thành tương 11ứng đều như nhau (dù hiện tại trên thực tế không hẳn như vậy). Phần mộ đều xây thấp, phẳng với 2 tầng, xây theo lối giật cấp. Trước mộ có hương án, sau cổng có bình phong trang trí long mã và rồng. Sau lưng mộ cũng có bình phong trang trí rồng cùng kiểu, ghép nổi mành sành sứ hoặc đắp nổi vôi vữa. Sự giống nhau này cũng rất dễ hiểu vì tất cả các lăng trên đều được tái xây dựng và tu bổ trong các thời điểm gần tương tự như nhau (Trùng kiến đầu thời Gia Long [trong 2 năm 1808-1809], tu sửa năm Minh Mạng 21 [1840] và đầu thời Thiệu Trị [1841]).
- Tuy quy mô nhỏ hơn, cách thức xây dựng cũng đơn giản hơn nhiều so với lăng các vua Nguyễn về sau, nhưng lăng mộ các chúa đều có vị trí rất lý tưởng và hoàn toàn tuân thủ các quy tắc về phong thủy địa lý. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua những đặc điểm chung của chúng dưới đây:
+Các lăng mộ đều tọa lạc trên đồi cao, có núi dựa lưng, trước mặt đều có hồ nước, khe suối hoặc đồng ruộng làm “tụ thủy”. “Minh đường” của lăng thoáng rộng và có bình phong là núi tự nhiên che chắn. Hai bên đều có núi chầu về làm thế “tay ngai” (Tả Long, Hữu Hổ)…
+Các lăng chúa ở vị trí tương đối xa nhau và đều cách trung tâm Huế khá xa. Điều này chứng tỏ người xưa đã bỏ rất nhiều công sức cho việc tìm kiếm mảnh đất làm “Sinh phần” cho các chúa Nguyễn.
+Hướng của các lăng rất phong phú chứ không chỉ tuân theo nguyên tắc “Nam diện” (xoay mặt về hướng nam) của đại đa số các công trình kiến trúc (cả kiến trúc nhà cửa lẫn kiến trúc lăng mộ) thời vua Nguyễn về sau. Đây là điều hết sức lý thú đối với những ai muốn tìm hiểu phong thủy thời Nguyễn.
II.2.2 Lăng các vua Nguyễn và hoàng hậu
Trong 143 năm tồn tại (1802-1945), vương triều Nguyễn có 13 vị hoàng đế nhưng chỉ để lại 7 khu lăng tẩm quy mô của 10 vị hoàng đế và một số lăng của hoàng hậu. Do điều kiện lịch sử khác nhau nên các khu lăng có quy mô, phong cách cũng khác nhau.
II.2.2.1. Lăng Gia Long: Tên chữ là Thiên Thọ Lăng 天授陵, thực ra là cả một quần thể gồm 7 khu lăng tẩm của vua Gia Long, 2 vị hoàng hậu và 4 thành viên khác thuộc hoàng gia Nguyễn nằm trong một khu vực rộng đến 2.875ha. Tuy nhiên, chỉ có lăng vua Gia Long, 2 vị hoàng hậu và thân mẫu của vua là được xây dựng theo quy chế lăng hoàng đế, có tẩm thờ riêng.
- Lăng vua Gia Long và Thừa Thiên Cao hoàng hậu, tức lăng Thiên Thọ, nằm ở vị trí trung tâm, bố cục chia thành 3 phần: Tẩm điện-lăng mộ-nhà bia, dàn hàng ngang, đặt trên 3 ngọn núi thấp (giữa là núi Chánh Trung 正中山, bên tả là Thanh Sơn 青山, bên hữu là Bạch Sơn 白山), trước mặt có hồ nước hình mặt trăng 月湖, tiếp là núi hình bán nguyệt, tiếp là ngọn núi chủ Đại Thiên Thọ Sơn 大天授山, chung quanh có 36 ngọn núi chầu vào, đều được đặt tên. Phần trung tâm của khu đất này 3 mặt tả, hữu, hậu rộng 100 trượng (424m), mặt tiền rộng 150 trượng (636m). Lăng vua và hoàng hậu đặt trong 3 lớp bảo thành xây gạch, vòng trong 30m, rộng 24m, cao 4,16m; vòng ngoài rộng 31m, dài 1270m, cao 3,56m, dày 1m. Bảo phong xây kiểu 2 ngôi nhà đá 石室 có mái kề nhau kiểu “càn khôn hiệp đức” 乾坤協德, trước bảo phong có 2 hương án xây đá. Mặt trước và sau lưng đều có bình phong, cửa ngoài làm bằng đồng. Trước mặt là 7 tầng sân chầu lát gạch, lối thần đạo lát đá Thanh. Ở tầng sân cuối hai bên dựng tượng thị vệ, voi, ngựa (10 người, 2 voi, 2 ngựa), đều bằng đá Thanh.
Nhà bia nằm bên tả, trên núi Thanh Sơn, đó là một "phương đình" dạng cổ lầu với hai tầng mái, nằm trên một nền cao. Mặt bằng của ngôi nhà là 8,75m x 8,80m. Bốn mặt xây tường gạch chịu lực. Mỗi mặt trổ một cửa ở giữa, để trống. Khu vực tầng sân xây nhà bia rộng 30m, dài 42m, chung quanh có xây tường thấp bao bọc. Bi đình được xây để bảo vệ cho tấm bia đá ghi khắc bài văn bia Thánh Đức Thần công do vua Minh Mạng soạn để nói về tiểu sử và công đức của vua cha. Bia cao 2,96m, rộng 1m, dày 0,32m, dựng trên một cái bệ cũng bằng đá dài 1,95m, rộng 1,55m. Bia và đế làm bằng đá Thanh đều được chạm trổ rất tinh xảo. Trán bia trang trí mặt rồng ngang miệng ngậm chữ "thọ". Tai trên, tai dưới và hai diềm bên chạm hình rồng mây. Ở diềm trên, giữa trang trí hình mặt trời, hai bên là vân xoắn. Diềm dưới chạm hình thủy ba và vân xoắn. Ngày xưa, tất cả những chữ khắc trong lòng bia đều thếp vàng. Gần đó là nơi thờ “Hậu Thổ Chi Thần”, một tấm bia nhỏ đặt trên bệ đá 2 cấp, cao hơn 1,2m. Khu tẩm thờ nằm bên hữu khu lăng, trên núi Bạch Sơn, được bao bọc bởi tường thành hình chữ nhật (dài 102m, rộng 19m, cao 2,5m). Trước là Nghi Môn, hai bên là Tả hữu tòng viện, chính giữa là điện Minh Thành, kiểu nhà kép 5 gian 2 chái, mặt nền 17,6m x 19,6m, bên trong thờ Long vị của vua Gia Long và Thừa Thiên cao Hoàng hậu. Phía sau điện Minh thành xưa có Bảo Y Khố, nơi đặt áo quần thờ tự bà Thừa thiên Cao hoàng hậu.
- Lăng Thiên Thọ Hữu 天授右陵, nằm bên hữu lăng Thiên Thọ, trên núi Thuận Sơn 順山, chia thành 2 khu vực: lăng và tẩm, cách nhau 50m. Khu lăng có 2 lớp tường thành bao bọc, tường ngoài chu vi 130m, cao 2,9m; tường trong chu vi 82m, cao 2,3m. Bảo phong xây bằng đá; bình phong trước và hương án cũng xây bằng đá Thanh. Khu điện thờ có công trình kiến trúc chính là điện Gia Thành 嘉成殿, làm nơi thờ bà Thuận Thiên Cao hoàng hậu, kiến trúc nhà kép, nay đã bị đổ nát.
- Lăng Thoại Thánh 瑞聖陵 có bố cục và cấu trúc gần giống lăng Thiên Thọ Hữu, gồm 2 phần: khu lăng và khu tẩm thờ. Đây là lăng hoàng thái hậu đầu tiên của triều Nguyễn. Khu lăng phía trước có hồ gần vuông (88m x 77m), bảo phong làm bằng đá Thanh, ngoài có 2 vòng tường thành bảo vệ, vòng trong chu vi 89m, cao 3,4m, vòng ngoài chu vi 138m, cao 3,6m; cửa ngoài kiểu cổng vòm; trước sau đều có bình phong xây gạch che chắn. Phần tẩm điện nằm trong một vòng thành dài 108m, rộng 63m, cao 3,7m. Điện chính vốn gần giống điện Minh Thành, kiểu nhà kép, mặt nền 25m x 19,5m, trước sau còn có tả hữu tòng viện, tả hữu tòng tự, nhưng tất cả đã đổ nát.
II.2.2.2. Lăng vua Minh Mạng: Tức Hiếu lăng 孝陵. Đây là lăng duy nhất của một vị hoàng đế, không có bồi táng hoàng hậu hay các thành viên hoàng gia khác. Lăng được lựa chọn, quy hoạch và xây dựng rất công phu.
Tổng thể khu vực lăng rộng gần 500ha, nhưng khu lăng chính rộng khoảng 15ha, có vòng tường thành xây đá núi, cao 3,6m, dài gần 2.000m bao bọc. Bố cục lăng xếp theo chiều dọc kiểu hình chữ Nhất (一), dựa lưng vào Hiếu Sơn, phía sau nữa là núi Kim Phụng 金風山 (núi chủ của vùng Huế, cao 475m), mặt hướng ra ngả ba sông Hương, theo trục Càn-Tốn (tây bắc-đông nam). Có thể chia kiến trúc lăng thành 3 phần: trục trung tâm và 2 trục tả hữu.
Mở đầu trục trung tâm (Thần đạo) là bình phong ngoài, rồi đến Đại Hồng Môn 大紅門 kiểu tam quan xây gạch. Tiếp theo là sân chầu lát gạch Bát Tràng, rộng 42m x 44,8m với hai hàng thạch tượng sinh (voi, ngựa, quan văn, quan võ), cuối sân có lân đồng đứng trong thiết đình. Tòa nhà bia đặt trên nền đài 2 tầng, cao hơn 9m, kích thước cạnh nền đài 20m x 20m; riêng nhà bia kiểu phương đình, cạnh 10m x10m, bên trong dựng tấm bia Thánh Đức Thần Công cao hơn 3m, đặt trên bệ đá Thanh (cao 1,09m, rộng 2,33m, dài 1,65m). Tiếp theo là 3 tầng sân tế (rộng 44,8m x 45m). Khu tẩm thờ nằm trong vòng tường thành kép kín, trổ cửa 4 mặt. Mở đầu bằng Hiển Đức Môn 顯德門, một chiếc cửa tam quan bằng gỗ, có cổ lâu. Tiếp đến là điện Sùng Ân 崇恩殿, làm kiểu nhà kép (mặt nền 23,45m x 22,05m), trong thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu. Phía trước hai bên là Đông-Tây phối điện 東西陪殿, phía sau hai bên có Tả -Hữu tùng viện 左右從院. Sau cùng kết thúc bằng Hoằng Trạch Môn 弘澤門, kiểu cửa vòm xây gạch. Tiếp theo là 3 chiếc cầu (giữa là cầu Trung Đạo 中道橋, trái là Tả Phù 左輔橋, phải là Hữu Bật 右弼橋) nối qua Minh Lâu 明樓, một tòa nhà hai tầng đặt trên ngọn đồi đắp 3 tầng, gọi là Tam Tài Sơn 三才山. Tiếp nữa là cầu Thông Minh Chính Trực 通明正直橋 nối ngang qua hồ Tân Nguyệt 新月湖đến Bảo thành 寶城. Bảo thành có vòng tường xây gạch, cao 3,5m, chu vi 273m, bao bọc lấy một quả đồi tự nhiên hình tròn, trên trồng thông. Bên dưới là Huyền cung玄宮xây ngầm trong lòng đất . Toàn bộ trục Thần đạo này dài hơn 700m.
Đối xứng qua trục Thần đạo về bên trái, mở đầu là Tả Hồng Môn 左紅門, sau đó là các công trình nằm rải dọc ven hồ Trừng Minh 澄明湖, như Truy Tư Trai 追思齋 Quan Lan Sở 關蘭所, Linh Phương Các 靈芳閣, Tả Tùng Phòng 左從房, Nghênh Lương quán 迎涼館. Bên phải trục trung tâm, mở đầu là Hữu Hồng môn 右紅門, rồi đến Hư Hoài tạ 虛懷榭, Thần khố 神庫, Hữu Tùng phòng右從房, Thuần Lộc hiên馴鹿軒, Điếu Ngư đình 釣魚亭. Hầu hết các công trình ở hai trục tả, hữu này đã bị đổ nát, nay chỉ còn nền móng.
II.2.2.3. Lăng vua Thiệu Trị
Đây là một khu vực rộng lớn, bao gồm 3 khu lăng: Xương lăng 昌陵, Hiếu Đông lăng 孝東陵và Xương Thọ lăng 昌壽陵, ngoài ra còn có nhiều tẩm mộ của một số thành viên trong gia đình vua Thiệu Trị.
-Xương lăng 昌陵: Có bố cục chia thành 2 phần: khu tẩm thờ (bên hữu) và khu lăng mộ (bên tả), đặt song song với nhau, đều dựa lưng vào núi thấp, hướng mặt ra đồng ruộng, về phía tây bắc, không có la thành bao bọc; tổng diện tích khu vực này khoảng 6ha. Về quy mô và hình thức kiến trúc, các công trình tại Xương lăng gần tương tự với Hiếu lăng của vua Minh Mạng, nhưng nhỏ và đơn giản hơn.
Mở đầu trục tẩm thờ là bình phong xây gạch, tiếp đó là ao bán nguyệt (rộng 2.400m2), đến phường môn bằng đá cẩm thạch, rồi sân tế với 3 tầng, lát gạch Bát Tràng, lối giữa lát đá Thanh. Khu vực tẩm điện có tường thành hình chữ nhật bao bọc, trổ cửa 4 phía; mặt trước là Hồng Trạch Môn 鴻澤門, cấu trúc tựa Hiển Đức Môn của lăng Minh Mạng, tiếp đến là điện Biểu Đức 表德門(mặt nền 23,4m x 21,5m), cấu trúc nhà kép gần như điện Sùng Ân, trước và sau ở 2 bên cũng có Tả hữu vu, Tả hữu tòng viện. Cổng sau kiểu cửa vòm xây gạch.
Trục lăng mộ mở đầu bằng hồ Nhuận Trạch 潤澤湖hình bán nguyệt (3.300m2), sau đó là bình phong xây gạch, nghi môn đúc bằng đồng, rồi đến sân chầu lát gạch Bát Tràng với hai bên là thạch tượng sinh (voi, ngựa, quan văn, quan võ). Tiếp theo là tòa bi đình, đặt trên nền đài cao 2,65m, cấu trúc gần giống nhà bia lăng Minh Mạngbên trong đặt tấm bia Thánh Đức Thần Công do vua Tự Đức soạn. Tiếp đến là Đức Hinh lâu 德馨樓, và chếch ra sau là Hiển Quang Các 顯光閣. Đức Hinh Lâu kiến trúc tương tự như Minh Lâu nhưng chỉ còn lại nền móng (mặt nền 18,5m x 18,5m); hai bên có 2 trụ biểu xây gạch. Tiếp theo là hồ Ngưng Thuý 凝翠池, rộng 7.600m2, hình bán nguyệt, ôm bọc lấy Bảo thành hình tròn. Nối thông qua hồ là 3 chiếc cầu: Chánh Trung 正中橋, Đông Hòa 東和橋 (tả) và Tây Định 西定橋(hữu). Bảo thành xây gạch, cửa bằng đồng, chu vi 260m, bên trong trồng thông um tùm tựa bảo thành lăng Minh Mạng.
- Xương Thọ lăng 昌壽陵: Là lăng của bà thái hậu Từ Dũ (thân mẫu vua Tự Đức), nằm ở phía tây của phần tẩm thờ, cấu trúc khá đơn giản. Phía trước có hồ bán nguyệt, sau là 3 tầng sân tế. Bảo thành gồm 2 lớp hình chữ nhật lồng vào nhau. Lần tường ngoài cao 3,6m, chu vi 89,4m; lần tường trong cao 2,65m, chu vi 60,5m; trước sau đều có bình phong che chắn, cánh cửa làm bằng đồng. Bảo phong xây kiểu thạch thất như lăng Gia Long.
- Hiếu Đông lăng 孝東陵: Là lăng của bà Thái hậu Hồ Thị Hoa 胡氏華, thân mẫu vua Thiệu Trị. Lăng nằm phía trước Xương lăng, gần bờ sông Hương. Bố cục chia thành các phần: khu ngoại lăng, khu nội lăng, khu tẩm phụ thuộc. Khu ngoại lăng gồm Bến Ngự (bến thuyền bên sông Hương), Ngự Lộ御路 (con đường đất rộng 3m dẫn vào lăng), 2 Trụ biểu 花表柱xây gạch cao 15m, Công Sở Đài 公所台 (tòa nhà dành cho binh lính canh trực, rộng 5 gian, nay đã bị hủy hoại). Khu nội lăng bắt đầu bằng hồ bán nguyệt (rộng hơn 2.000m2), rồi đến 3 sân chầu; sân tế lát gạch Bát Tràng (lối giữa lát đá Thanh); rồi đến Bảo thành. Bảo thành quy chế 2 lớp bao bọc lấy Bảo phong ở trong; lớp tường ngoài dài 26m, rộng 20,7m, cao hơn 3m; tường trong dài 16m, rộng 13,8m, cao 2,6m. Bảo phong xây đá Thanh, kiểu thức như lăng Thiên Thọ, dài 4m, rộng 3,12m, cao 1,3m; phía trước có hương án bằng đá; trước sau đều có bình phong che chắn. Các lăng mộ phụ thuộc có lăng cố Hoàng Nữ 故皇女, lăng Tảo Thương và lăng Chư Công 諸公; đây là tẩm mộ của những người con của nhà vua bị chết khi còn nhỏ.
II.2.2.4. Lăng vua Tự Đức: Đây là khu lăng mộ rộng lớn với tổng diện tích gần 500ha, riêng nội lăng khoảng 15ha, bao gồm 3 khu lăng: Khiêm Lăng, Khiêm Thọ Lăng và Bồi Lăng. Điểm đặc biệt của khu lăng này là toàn bộ việc thiết kế đều do vua Tự Đức thực hiện, và trong khoảng 16 năm sau khi xây dựng xong (1867-1883) nó là một ly cung, sau đó mới trở thành khu lăng tẩm.
- Khiêm Lăng 謙陵: Về bố cục, nhìn chung lăng Khiêm Lăng kế thừa các ý tưởng của Xương Lăng (cũng là khu lăng do vua Tự Đức thiết kế) để chia lăng thành 2 trục: Lăng và Tẩm (nhưng Tẩm đặt bên tả, Lăng đặt bên hữu), đồng thời bổ sung thêm kiến trúc vườn cảnh ở mặt trước, bao quanh hồ Lưu Khiêm 流謙湖, nên tổng thể khu lăng trông mềm mại, nên thơ hơn rất nhiều. Ngoài 2 trục lăng chính thì Khiêm Thọ Lăng và Bồi lăng đều là những lăng mộ được táng vào sau, không theo quy hoạch từ đầu nên đã ảnh hưởng đến tổng thể kiến trúc của lăng Tự Đức.
La thành xây bằng gạch, đá núi, cao 2,5m, dài hơn 1500m, mở 3 cửa: Vụ Khiêm 務謙門, Thượng Khiêm 尚謙門 và Tự Khiêm自謙門 . Khu vực cảnh quan phía trước chủ yếu là hồ Lưu Khiêm, lấy nước từ bên tả, chạy suốt ôm vòng cả hai trục lăng và tẩm. Giữa hồ có Khiêm Đảo謙島, trên dựng 3 ngôi đình nhỏ là Nhã Khiêm 雅謙亭, Lạc Khiêm 樂謙亭 và Tiêu Khiêm 標謙亭, bên bờ hồ có 2 tòa thủy tạ Dũ Khiêm 愈謙榭 và Xung Khiêm 沖謙榭; lại có 3 chiếc cầu gạch Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm 踐謙橋 và Do Khiêm 由謙橋 nối liền hai bờ hồ và chiếc cầu gỗ nối qua đảo.
Trục Tẩm nguyên là phần chính của ly cung, ngoài có 2 tòa nhà vuông Công Khiêm, Cung Khiêm, cửa chính là Khiêm Cung Môn, 3 gian, có cổ lâu. Qua cửa hai bên là Lễ Khiêm Vu 禮謙廡và Pháp Khiêm Vu 法謙廡, điện chính Hoà Khiêm 和謙殿 làm theo kiểu nhà kép (mặt nền), là nơi thờ bài vị vua Tự Đức và hoàng hậu. Phía sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm 良謙殿, vốn là tẩm cung dành vua nghỉ ngơi, sau thành nơi thờ Thái hậu Từ Dũ (mẹ vua); hai bên là Ôn Khiêm Đường 溫謙堂 (nhà để trang phục) và Minh Khiêm Đường 鳴謙堂 (nhà hát riêng của vua), phía sau là Tòng Khiêm viện 從謙院 và Dụng Khiêm viện 用謙院. Sau nữa lại có Ích Khiêm Các 益謙閣, vườn hoa. Bên hữu trục tẩm có một khu vực rộng với nhiều dãy nhà ngăn thành các phòng nhỏ, là nơi dành cho phi tần ở mỗi khi nhà vua lên Khiêm Cung. Gần ra phía trước là Chí Khiêm Đường 至謙堂(nơi thờ cung phi tiền triều), hai bên có Y Khiêm Viện 依謙院 và Trì Khiêm Viện 持謙院.
Trục lăng đặt lùi về phía sau so với trục tẩm (xây dựng cũng muộn hơn). Mở đầu là sân chầu với hai hàng thạch tượng sinh (tượng đắp vôi vữa), tiếp đến là bi đình trong đặt tấm bia khổng lồ khắc bài Khiêm Cung Ký 謙宮記 do chính vua Tự Đức soạn. Bia cao 4m, rộng 2,15m đặt trên bệ đá cao 1m, dài 3,08m, rộng 1,6m. Tiếp đến là ao Tiểu Khiêm 小謙池hình bán nguyệt, rồi bảo thành 2 lớp, trong dựng bảo phong bằng đá Thanh, kiểu dáng tựa Bảo phong lăng Gia Long. Bảo phong dài 2,96m, rộng 1,58m, cao 2,47m.
Khiêm lăng cũng là ngôi lăng hiếm hoi mà quy chế về Huyền cung được quy định rõ. Một bản Tấu năm 1883 được phê chuẩn đã cung cấp những thông tin rất quý cho việc tìm hiểu khu lăng mộ này:
“Đã cho xây dựng Huyền Cung, tầng thứ nhất dùng quách gỗ, tầng thứ hai dùng quách đá, tầng thứ ba và dưới đáy đều lát 5 phiến đá; chu vi lần trong xây 2 lượt đá, lần ngoài xây gạch (dày 1 thước 5 tấc), bên trên xây nhà đá, kỷ đá, đều một tòa; mặt trước mở đường hầm, sẽ có xe rồng để đẩy vào. Lại xây tường thành, trong làm bình phong trước sau, cửa lầu, cửa ngách, cánh cửa bằng đồng, cột đồng trụ chạm vẽ hình rồng. Các khoản vật liệu cần dùng: đá Thanh, đá Quảng khoảng hơn 2000 phiến; các hạng gạch hơn 400.000 viên; các hạng ngói hơn 7000 viên; các hạng vôi hơn 20.000 cân; các hạng trà hơn 480.000 cân; nhựa thông hơn 700 cân; chì hơn 1000 cân, mật mía hơn 30.000 cân; sắt hơn 3000 cân; lưới rách hơn 200 cân; còn các hạng thuốc trên dưới 20, 30 cân; Quản suất viên binh hơn 1200 người; thợ đá 200 tên, thợ mộc 150 tên, thuyền Ô, thuyền Lê, san bản 15 chiếc, nhận làm việc 1 năm 2 tháng ”.
- Lăng Khiêm Thọ 謙壽陵: Quy mô khá nhỏ, nằm bên tả phần Lăng, đối diện qua hồ Lưu Khiêm. Khu lăng chỉ bao gồm 5 sân tế trong đó có 4 tầng lát gạch, bảo thành và bảo phong. Trên sân tế có sẵn nền nhà và các lỗ cột để dựng nhà Hoàng ốc mối khi tế lễ. Bảo thành 2 lớp tường, trước sau đều có bình phong che chắn. Tường ngoài 31,5m x 21,3m; tường thành trong 19m x 14,55m. Bình phong trước của lăng Khiêm Thọ được trang trí ghép sành sứ rất đẹp. Bảo phong xây bằng đá Thanh, tương tự lăng vua, dài 2,96m, rộng 1,58m, cao 2,5m.
Việc xây dựng lăng Khiêm Thọ đã được chuẩn bị từ năm 1888 dưới thời vua Đồng Khánh, khi đó triều đình đã bắt đầu cho xây Huyền cung, làm toại đạo. Sau khi hoàng hậu Lệ Thiên qua đời, triều đình mới hoàn chỉnh việc xây dựng và dâng tên lăng (năm 1902).
- Bồi lăng 陪陵
Lăng được xây dựng năm 1884, sau khi vua Kiến Phúc băng hà sau 4 tháng trị vì. Vị vua này là một trong 3 người con nuôi của vua Tự Đức nên trong bối cảnh đất nước vô cùng khó khăn, triều Nguyễn đã quyết định bồi táng ông vào khuôn viên lăng vua cha, lấy tên là Bồi Lăng. Lăng nằm ở bên tả ngạn hồ Lưu Khiêm, cùng phía với Khiêm Thọ Lăng. Khu lăng chia thành 2 phần: phần Tẩm thờ sử dụng tòa Chấp Khiêm Trai執謙齋(đổi thành Chấp Khiêm Điện) làm nơi thờ tự, bên tả là lăng nhà vua. Chấp Khiêm Điện kiểu nhà kép nhưng cấu trúc đơn giản (mặt nền 16,3m x 10,8m), bên hữu còn có hành lang, nhà phụ. Sau điện có nền móng Di Khiêm Lâu遺謙樓, đây vốn là tòa nhà 2 tầng (36 cột trụ, mặt nền 16,3m x16,3m), đặt trên nền cao 1,56m, khi xây Bồi Lăng bị triệt giải. Khu lăng có 3 tầng sân tế, 2 vòng tường thành, vòng ngoài 14,7m x 16,9m, cao 2,4m; vòng trong 10,2m x 8,2m, cao 1,8m. Bảo phong xây rất thấp, cao 0,37m, dài 2,7, rộng 1,4m, bên dưới là Huyền cung, quy cách xây dựng cũng được tư liệu ghi rõ.
II.2.2.5. Lăng vua Dục Đức:
Đây là khu lăng tẩm gần Kinh thành nhất, rộng gần 6ha, bao gồm lăng của vua Dục Đức (An Lăng安陵) hiệp táng cùng Từ Minh hoàng hậu, lăng vua Thành Thái, vua Duy Tân cùng nhiều thành viên khác thuộc đệ tứ chánh hệ. Do vua Dục Đức chỉ làm vua được 3 ngày, chưa kịp đặt cả niên hiệu, bị phế truất và chết thảm trong ngục nên lúc đầu việc chôn lấp rất sơ sài. Sau khi Thành Thái (con trai vua Dục Đức) lên ngôi thì mới cho xây dựng quy mô và đặt tên lăng.
An Lăng cũng chia thành 2 phần: Lăng (tả) và Tẩm (hữu), đặt song song với nhau, hướng mặt về phía tây bắc. Phần tẩm điện có tường thành bao bọc, diện tích 6.245m2 (73,6m x 57,1m), trổ 4 cửa. Sau cửa Tam quan xây gạch là bình phong, sân tế, đến điện Long Ân隆恩殿, kiểu nhà kép 5 gian (mặt nền 22,2m x 20,2m), trong thờ bài vị vua Dục Đức và hoàng hậu, sau bổ sung thêm vua Thành Thái và vua Duy Tân. Phía sau điện Long Ân là Tả hữu tòng viện.
Khu lăng cũng có la thành bao bọc theo kiểu 3 lớp, đều xây gạch bao bọc lấy một khu vực có diện tích 3.445m2 (67,5m x 51m), trổ 3 cửa mặt trước và 2 cửa ở hai bên. Cửa chính giữa phía trước kiểu tam quan 3 tầng, xây gạch, 2 cửa bên kiểu cửa vòm. Qua cửa là sân chầu rộng 1.368m2, qua lớp thành trong là Bảo thành (38,6m x14,5m). Trong Bảo thành có nhà Hoàng Ốc hình vuông (cạnh 7m) sườn gỗ, lợp mái ngói Hoàng lưu li. Hai bên nhà là Bảo phong gồm 2 ngôi mộ xây liền kề kiểu “Càn Khôn hiệp đức” như Thiên Thọ Lăng nhưng kiểu hình khối chữ nhật với 5 tầng chồng lên nhau, cao 0,84m.
Điểm đặc biệt của An Lăng là không có nhà bia và thạch tượng sinh.
Lăng vua Thành Thái và lăng vua Duy Tân đều nằm ở phía đông của An Lăng, do mới đưa vào sau nên việc xây dựng đơn giản, không khác gì mồ mả của người dân bình thường.
II.2.2.6. Lăng vua Đồng Khánh:
Đây cũng là một khu vực lăng tẩm rộng lớn, nối liền với khu vực lăng vua Tự Đức, tạo nên một quần thể lăng tẩm rộng gần 500ha. Riêng trong khu vực này có khu lăng tẩm khác nhau: Tư Lăng 思陵 của vua Đồng Khánh, Thiên Thành Cục 天成局 của Kiên Thái Vương và một số tẩm mộ của các thành viên khác trong gia đình với thời gian xây dựng cũng rất khác nhau.
Tương tự như lăng mộ các vị vua Nguyễn khác, Tư lăng gồm có 2 phần: khu điện thờ và khu lăng mộ.
Khu điện thờ tọa lạc trên một ngọn đồi, quay mặt hướng đông nam, lấy đồi Thiên An, cách đó 3km làm tiền án. Toàn bộ khu vực này có vòng tường xây gạch hình chữ nhật bao bọc. Tường cao 3m, dày 0,55m, chu vi 262m; khoảng giữa 4 mặt đều trổ cửa. Cửa hậu và hai cửa bên đều làm theo lối cửa vòm cuốn, có mái đúc giả ngói, còn cửa chính phía trước, mang tên Cung Môn 宮門 làm bằng gỗ, kiểu 3 gian, 2 tầng. Từ nền Cung Môn đi ra phía trước có đến 15 bậc cấp bằng đá Thanh, 2 bên đắp rồng chầu thành bậc, đi ra phía sau có 3 bậc cấp dẫn xuống sân trước điện Ngưng Hy 凝禧殿.
Điện Ngưng Hy là ngôi điện chính của khu điện thờ, cấu trúc kiểu nhà kép trùng thiềm điệp ốc với 3 ngôi nhà ghép 7 gian 2 chái liền nhau đặt trên 1 mặt nền thống nhất, gần như vuông (25m x 24m). Cả 3 phần của điện đều 7 gian, 2 chái với tổng cộng 100 cây cột gỗ lim sơn son thếp vàng rực rỡ. Ở chính điện ngoài bài vị vua Đồng Khánh, 2 bên tả, hữu còn thờ bài vị 2 hoàng hậu Thánh cung, Tiên cung.
Phía trước điện Ngưng Hy, bên tả là Công Nghĩa Đường 公義堂, bên hữu có Minh Ân Viện 明恩院, đều kết cấu kiểu 3 gian 2 chái, dùng làm nơi thờ các công thần. Sau điện, 2 bên có Tả, Hữu tòng viện, cũng kết cấu kiểu 3 gian 2 chái, dùng làm nơi sinh sống của các cung phi sau khi vua mất.
Khu lăng mộ cũng nằm trên một ngọn đồi cao, quay mặt về hướng đông- đông- nam, lấy ngọn Thiên Thai làm tiền án, cấu trúc tương tự lăng mộ các vua Nguyễn tiền triều nhưng đã dùng vật liệu ximăng sắt thép. Bảo phong nằm trong 3 vòng tường thành xây gạch hình vuông. Vòng tường ngoài (25 x 25m), cao 1,6m, dày 0,5m; vòng tường thứ 2 chỉ cao 0,5m, dày 0,7m; vòng tường thứ 3 cao đến 3,4m, dày 0,6m. Cả 3 vòng tường đều trổ một cửa phía trước; sau cửa ngoài cùng có bình phong trang trí hổ phù và chữ thọ. Bảo phong xây bằng đá Thanh kiểu 1 ngôi nhà có mái, dài 4,2m, rộng 2,6m, bờ nóc và đầu hồi trang trí hình rồng, dơi và chữ thọ.
Phía trước lăng là 3 tầng sân tế rộng 25,7m, tầng sân trên dài 10m, lát gạch carô, tầng sân giữa dài 7m, tầng dưới cùng dài 5,2m, đều lát gạch Bát tràng. Trước nữa là nhà bia hình tứ giác xây gạch, mái đúc giả ngói ống, trong dựng bia Thánh Đức Thần Công bằng đá Thanh. Bia cao 3m, rộng 1,45m, dày 0,16m đặt trên bệ cũng bằng đá Thanh cao 0,6m, rộng 0,8m, dài 2,8m. Trên bia khắc bài văn ca ngợi công đức vua cha của vua Khải Định viết năm 1916. Hai bên nhà bia là 2 trụ biểu xây gạch trát vữa ximăng.
Sân bái đình nằm phía trước nhà bia, ngoài cùng là Nghi môn kiểu tam quan đắp trụ tròn, nền sân lát gạch Bát tràng. Hai bên sân Bái đình thiết trí hai hàng tượng gồm quan văn, quan võ, ngựa, voi, mỗi bên 6 bức. Khác với tượng đá Thanh ở các lăng mộ vua Nguyễn tiền triều, tượng ở đây đắp bằng gạch và vôi vữa, hình thức tượng khá thanh mảnh. Tất cả các bức tượng đều được đặt trên các bệ vuông xây gạch. Nhìn chung, về hình thức, Tư lăng cũng tương tự các lăng mộ các vua Nguyễn khác. Nét đặc sắc ở đây có lẽ là điện Ngưng Hy với kiểu kết cấu nhà ghép 3 căn mang trên mình nó những hình thức trang trí nghệ thuật hết sức phong phú và độc đáo của nghệ nhân Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Về mặt lịch sử kiến trúc, Tư lăng là công trình đánh dấu sự ảnh hưởng của kiến trúc hiện đại vào kiến trúc truyền thống Việt Nam, để rồi mở kỷ nguyên đấu tranh và hòa hợp giữa hai dòng kiến trúc này.
II.2.2.7. Lăng vua Khải Định:
Tức Ứng Lăng 應陵, là lăng tẩm hoàng đế được xây dựng cuối cùng của thời Nguyễn. Khu lăng đặt trên sườn núi Châu Chữ, mặt quay về hướng tây nam, toàn bộ không gian rộng lớn quanh lăng đều có rừng thông bao phủ. Giữa không gian ấy, lăng Khải Định nổi bật lên như một tòa lâu đài đồ sộ của Tây Âu thời trung cổ. Mặt bằng xây dựng lăng hình chữ nhật (117m x 48,5m), có hàng rào cao 3m bảo vệ. Toàn bộ khu tẩm điện và lăng mộ hòa chung với nhau thành 1 trục thống nhất, bố trí trên 7 tầng sân với 127 bậc cấp xây gạch. Tầng dưới cùng là con đường chạy qua trước mặt lăng, vượt qua 37 bậc cấp mới đến cửa chính. Hệ thống bậc cấp chia thành 3 lối đi, 2 bên thành bậc đắp nổi 4 con rồng rất lớn, tư thế bò từ trên xuống. Qua khỏi cửa chính là tầng sân thứ 2, hình chữ nhật (47m x 24,5m), lát gạch ca rô. Hai bên sân có 2 nhà Tả, Hữu tòng tự, tục gọi là nhà Xanh, đều 3 gian, xây vách, mái lợp ngói liệt; trong thờ bài vị các công thần. Qua tiếp 29 bậc cấp nữa là sân Bái đình (47m x 40,5m). Nghi môn kiểu tam quan đồ sộ ở phía trước. Hai bên sân, mỗi bên có 2 hàng tượng gồm quan văn, quan võ, binh lính, ngựa, voi tạc bằng đá, đứng chầu. Bi đình đặt ở giữa phía cuối sân. Nhà bia xây hoàn toàn bằng bê tông, chia hai tầng mái, lợp ngói ardoise. Trong bi đình là tấm bia bằng đá Thanh đặt trên bệ đá kiểu chân quỳ khắc bài văn ca ngợi công đức vua Khải Định. Bia cao 3,1m, rộng 1,2m, bệ bia cao 0,76m, rộng 0,85m, dài 2,1m. Cả bia và bệ đều chạm khắc công phu, hình thức kiểu bia đá Huế truyền thống. Sau Bái đình là 3 tầng sân cũng hình chữ nhật, lát gạch carô, mỗi tầng cách nhau 13 bậc cấp, thành bậc đều đắp 4 con rồng cùng tư thế bò từ trên xuống. Trên sân có các bồn hoa hình chữ nhật trồng các loại cây cảnh, đặc biệt ở tầng sân thứ 2 còn có 2 cột cờ bằng bê tông khá hiện đại dùng để treo cờ vào dịp lễ tết. Cung Thiên Định 天定宮 nằm ở tầng sân thứ 7, phía cuối trục thần đạo, và cũng là vị trí cao nhất của lăng. Đây là một tòa nhà đồ sộ kiêm cả chức năng điện thờ và nơi đặt thi hài của nhà vua.
Cung Thiên Định có mặt bằng hình chữ nhật (34,5m x 26,4m), nền lát đá cẩm thạch, không gian chia làm 5 phòng. Hai bên là Tả, Hữu trực phòng, tường quét giả màu đá cẩm thạch. Ba phòng giữa xếp theo hình chữ tam. Phòng phía trước đặt án thờ đúc bằng bê tông, phía trên có bức hoành đề tên điện (Khải Thành Điện 啟成殿). Toàn bộ 4 mặt tường được trang trí hết sức công phu bằng mảnh sành sứ ghép nổi với các đề tài bát bửu, tứ thời, ngũ phúc ghép với các câu thơ. Trần nhà trang trí bằng bức tranh Cửu long ẩn vân vẽ rất hoành tráng. Phòng giữa đặt bức tượng đồng mạ vàng vua Khải Định (tỉ lệ 1,7/1) ngồi trên ngai vàng, đúc năm 1920 tại Pháp. Trên đầu tượng là chiếc Bửu tán bằng bê tông, sau lưng tượng là hình mặt trời đang lặn xuống. Phía dưới tượng, ở độ sâu 9 mét là nơi cất giữ thi hài nhà vua. Phòng trong cùng có nền cao hơn các gian ngoài 1,7m. Đây là 21gian đặt bàn thờ và bài vị vua Khải Định cùng các đồ tự khí, ngự dụng. Có thể nói rằng, giá trị lớn nhất của lăng Khải Định là nghệ thuật trang trí bằng cách ghép nổi mảnh sành sứ và những bức tranh hoành tráng ở nội thất cung Thiên Định. Nhưng nhìn một cách toàn diện thì đây còn là khu lăng đã rất thành công trong việc kết hợp một cách hài hòa các trường phái kiến trúc Đông - Tây để tạo nên một dấu ấn đặc biệt trong lịch sử kiến trúc Việt Nam.
Một số nhận xét:
- Các lăng tẩm triều Nguyễn đều đặt ở phía tây, tây nam Kinh thành, nằm gần hai bờ sông Hương và hầu hết tách biệt nhau. Quy mô tổng thể lăng tẩm rất lớn với diện tích hàng trăm héc ta, nhưng quy mô các công trình kiến trúc không lớn, được tạo tác rất hài hòa với tự nhiên.
- Về bố cục, lăng tẩm các vua Nguyễn và hoàng hậu có thể chia thành 3 loại: 1- Bố cục theo chiều dọc theo một tổng thể xuyên suốt (lăng Minh Mạng, lăng Khải Định); 2-Bố cục thành 2 phần Lăng và Tẩm song song với nhau (Thiên Thọ Hữu Lăng, Xương Lăng, Khiêm Lăng, An Lăng, Tư Lăng, Ứng Lăng…); 3-Bố cục thành 3 phần Lăng –Tẩm- Nhà bia song song với nhau (Thiên Thọ Lăng). Loại đầu theo kiểu chữ Nhất (一), loại thứ hai kiểu chữ Nhị (二), loại thứ 3 vừa giống chữ Tam (三) vừa giống chữ Nhất (theo chiều ngang). Những cách sắp xếp bố cục trên có lẽ đều xuất phát từ sự cải biến bố cục của khu lăng đầu tiên –lăng Thiên Thọ, nhưng thực sự đã tạo nên sự phong phú, đa dạng của kiến trúc lăng tẩm Nguyễn, nhất là khi mỗi khu lăng đều biết gắn liền với điều kiện tự nhiên để tạo dựng các công trình cho phù hợp.
- Trong các khu lăng triều Nguyễn, yếu tố nước (Thủy 水) giữ vị trí rất quan trọng, có lẽ chỉ sau yếu tố núi (Sơn 山), trừ Ứng Lăng, tất cả các khu lăng đều tạo hồ nước bên trong và đôi khi chiếm diện tích rất lớn (Hiếu Lăng với hồ Trừng Minh; Xương Lăng với hồ Điện, hồ Nhuận Trạch, ao Ngưng Thúy; Khiêm Lăng với hồ Lưu Khiêm, ao Lưu Khiêm). Chính yếu tố nước đã làm kiến trúc các khu lăng mềm mại, nên thơ và giàu bản sắc phương Nam hơn. Bên cạnh đó các loại cây cối, hoa cỏ (Mộc 木) cũng rất được chú trọng. Các khu lăng đều được đặt trong những khu rừng lớn tự nhiên, được trồng rất nhiều loại cây, hoa… thể hiện rõ lối kiến trúc cảnh vật hóa hướng đến sự hòa đồng với thiên nhiên.
- Các loại vật liệu xây dựng lăng tẩm thời Nguyễn thể hiện rõ tính chất thời đại. Trong giai đoạn đầu, đều sử dụng vật liệu truyền thống là gỗ, gạch ngói, đá (trong đó có rất nhiều đá núi lấy tại chỗ), nhưng giai đoạn sau đã sử dụng cả vật liệu hiện đại nhập ngoại như ciment, sắt, ngói ardoise, sành sứ…(Tư Lăng, Ứng Lăng)
II.2.3. Viên tẩm của các thành viên khác thuộc hoàng gia
Có thể quy thành 3 loại: 1- Viên Tẩm của thân vương, thân công; 2- Viên Tẩm của hoàng tử, công chúa đã trưởng thành; 3- Viên Tẩm của phi tần; 4- Sơn phần Tảo thương .
Từ năm Minh Mạng thứ 19 (1838), triều Nguyễn quy định quy thức viên tẩm cho Phi tần, Cung tần, Tiệp dư... Nhưng đến năm Tự Đức 16 (1863) mới có thêm quy định chi tiết cho các đối tượng khác. Cụ thể như sau:
“Viên tẩm của Thân vương, Quận vương, Thân công chiếu theo lệ viên tẩm các phi, tường trong đều cao 4 thước 1 tấc, dày 1 thước 4 tấc (dưới này cũng thế), dài 2 trượng 7 thước, rộng 2 trượng 7 thước. Tường ngoài cao 4 thước 5 tấc dày 2 thước 2 tấc (dưới này dày cũng thế), dài 5 trượng 4 thước, rộng 4 trượng 5 thước. Mặt trước chính giữa xây cửa nguyệt môn, cánh cửa bằng gỗ sơn son, trong cửa, trước bình phong dựng một bia đá (dưới này cánh cửa kiểu bia và chỗ dựng như nhau) khắc mấy chữ "mỗ thân vương hoặc mỗ Thân công, mỗ Quận vương chi tẩm". Phía trước xây Bái Đình, 2 cấp, mỗi cấp rộng 6 thước. Tường bao lơn (nữ tường) mặt tiền tả hữu đều cao 1 thước 8 tấc, dày 7 tấc, chung quanh giới cấm đều 20 trượng. Viên tẩm các Quốc công, Quận công, và các công chúa đã phong, chiếu theo lệ viên tẩm các bậc Tần: Tường trong đều cao 3 thước 6 tấc, dài 2 trượng 3 thước, rộng 2 trượng 3 tấc. Tường ngoài cao 4 thước 1 tấc, dài 4 trượng 5 thước, rộng 3 trượng 6 thước. Một bia đá khắc mấy chữ "mỗ Quốc công" hoặc "mỗ Quận công, mỗ Công chúa chi tẩm". Nhưng không xây Bái Đình và nữ tường (dưới này cũng thế); giới cấm chu vi đều 12 trượng. Sơn phần các hoàng thân chưa phong và công chúa chưa phong thì theo như lệ Sơn phần Tiệp dư: Tường trong đều cao 3 thước 2 tấc, dài 2 trượng 1 thước, rộng 1 trượng 8 thước. Tường ngoài cao 4 thước, dài 3 trượng 6 thước, rộng 3 trượng 2 thước. Bia đá khắc mấy chữ "tiền triều" hoặc "mỗ tiền triều hoàng thân", hoặc "tiên triều tiền triều công chúa đệ kỷ thứ chi mộ", giới cấm chu vi đều 8 trượng”.
Về quy cách bia mộ thì đã có quy định từ năm 1838:
“Viên tẩm của các phi thì bia đá cao 2 thước 3 tấc 4 phân, rộng 1 thước 3 tấc 5 phân, dày 2 tấc 7 phân, đỉnh cao 7 tấc 2 phân, dài 1 thước 8 tấc, chân cao 5 tấc 4 phân, dài 2 thước 2 tấc, tất cả cao 3 thước 6 tấc. Mặt đỉnh và chung quanh thân bia, cả chân nữa đều khắc hình hoa văn, giữa khắc chữ “Viên tẩm của phi tần nào, họ nào”.
Viên tẩm của Cung tần, Sơn phần của Tiệp dư cho đến Cung nhân cũng được quy định chi tiết cả về kích thước, trang trí và bia mộ.
Đối với Sơn phần của Hoàng tử, công chúa chết yểu thì chiếu theo quy định của bậc Ngọc nhân:
“...làm tường gạch dài 18 thước, rộng 16 thước, cao 2 thước 7 tấc 5 phân, dày 1 thước 7 phân; trước bình phong dựng một bia đá, cao 1 thước 5 tấc, rộng 8 tấc 2 phân, dày 2 tấc 5 phân; chân bia cao 4 tấc, dài 1 thước 4 tấc, rộng 8 tấc 1 phân. Liệu cấp gạch vồ loại xây thành 1.200 viên, đá núi 1 đống và 5 phần đống, vôi 2500 cân, mật mía 49 cân, giấy bồi 350 tờ, bia đá 1 tấm và làm thêm 2 bức cánh cửa, dân phu 24 người, làm việc 24 ngày, cấp tiền 72 quan, gạo 19 phương 6 bát”.
(Cón tiếp ....)
Mộ các chúa Nguyễn và các phi cũng được tôn xưng là Lăng, vì họ đều được triều Nguyễn truy tôn là Hoàng đế, hoàng hậu. Có một trường hợp tuy không phải là lăng Hoàng đế, hoàng hậu nhưng vẫn được sách Đại Nam nhất thống chí liệt kê trong phần Sơn lăng là “Sơn phần Tuệ Tĩnh Thánh Mẫu Nguyên Suý tại vùng núi xã An Cựu huyện Hương Trà”, nhưng bà này cũng vốn là một công chúa.
Khi chép về lăng tẩm các chúa, sách Đại Nam nhất thống chí đều đã gọi các chúa và Phu nhân theo miếu hiệu của họ sau khi đã được triều Nguyễn truy tôn, như Thái tổ Gia dụ Hoàng đế (Nguyễn Hoàng)... Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyến 96, phần bộ Lễ cũng có phần chếp tên gọi các lăng tẩm tương tự.
Do lăng các chúa (và phi) đều được tái xây dựng lại đầu triều Nguyễn nên chúng ta không biết đích xác quy mô nguyên thủy lăng tẩm của các chúa, các quy định cụ thể về quy mô, cấu trúc lăng mộ đều thực hiện dưới triều Nguyễn.
Sách Hội điển cho biết, “Huyền cung được xây ngầm trong lòng đất theo quy thức người xưa”. Tôi cho rằng quy thức này giống như lăng mộ thời Minh-Thanh, có đường dẫn vào lòng núi gọi là Toại đạo, trong xây địa cung có lớp quách bằng gạch đá dày, quan tài đặt ở bên trong.
Khi ấy tên của lăng là Vạn Vạn Niên Đại Cát Cục. Bản tấu về việc xây dựng Huyền cung ghi rõ việc xây dựng, quy mô kích thước của Kim tỉnh (huyệt mộ), bên ngoài có lớp quách xây bằng gạch, trên gác các phiến đá thanh, trên nữa xây Bửu phong..vv. Về cấu trúc gần tương tự như Huyền cung của Khiêm lăng, nhưng nhỏ và đơn giản hơn.
“Năm Kiến Phúc thứ 1 [1884]: của quan Đổng lý chuẩn tờ sớ xây dựng: Xây dựng Huyền Cung việc là cao quí nay xin ở dưới Kim Tỉnh cho xây trước 4 lần gạch (dài 6 thước 9 tấc 3 phân, rộng 3 thước 5 tấc 6 phân, sâu 6 tấc 3 phân) trên lát 3 tấm gỗ sến (dài 5 thước 7 tấc 6 phân, rộng 2 thước 3 tấc, dày 3 tấc), làm đường đưa xe Long Tuần. Bốn mặt đều xây gạch bao kín (dày 7 tấc, dài tất cả là 7 thước 2 tấc, rộng 3 thước 7 tấc 8 phân, sâu 3 thước 2 tấc 4 phân, đợi lễ đưa Tử Cung xong sẽ tiếp tục xây). Lại gác ngang 5 tấm đá lớn (dài 3 thước 7 tấc 6 phân, rộng 7 thước 2 tấc, dày 3 tấc). Trên tấm đá lớn này xây Bửu Phong...” (Hội điển Tục biên, Bộ Công, q45, tờ 18a).
Nằm trong khuôn viên lăng này còn có mộ của các bà: Nguyễn Thị Định (vợ vua Thành Thái, mẹ vua Duy Tân), Nguyễn Gia Thị Anh (vợ chính vua Thành Thái), Hồ Thị Phương (vợ vua Thành Thái) và huyệt mộ bà Mai Thị Vàng (vợ vua Duy Tân) đã dược xây dựng chờ lễ cải táng hài cốt của bà về chôn nơi này. Ngoài ra còn có 42 lăng mộ của các ông hoàng, bà chúa và 121 ngôi mộ đất thuộc hệ phái của vua Dục Đức.
Nguyên ở khu vực lăng này trước đã có tẩm mộ Kiên Thái vương, thân phụ vua Đồng Khánh (đồng thời cũng là cha đẻ 2 vua Hàm Nghi và Kiến Phúc). Sau khi lên ngôi, vua Đồng Khánh mới cho xây điện Truy Tư, cách đó khoảng 100m về phía đông nam để thờ cha. Công trình đang dở dang thì vua Đồng Khánh lâm bệnh rồi băng hà ngày 28/1/1889. Vua Thành Thái kế vị đã quyết định dùng điện Truy Tư để thờ vua Đồng Khánh, đổi tên thành điện Ngưng Hy, còn bài vị Kiến Thái vương được đưa về thờ tại Hân Vinh từ đường, bên bờ sông An Cựu. Lăng mộ vua
Theo quy định, thê thiếp của hoàng đế triều Nguyễn được chia thành 9 bậc, nhưng chỉ có 2 bậc đầu là Phi tần và Cung tần thì lăng mộ được gọi là viên tẩm, các bậc còn lại đều gọi là Mộ.
TS. Phan Thanh Hải