ĐỀN MẪU THĂNG LONG
Hùng triều vua tổ, chủ quản thành Đại La là Lý Công Thành thiện lương, nên phu nhân Hồ Thị Thường mộng ứng điềm lành gặp Long Cung hoàng hậu nơi thủy phủ mà được ban cho vòng ngọc đeo tay, về sau lại sinh hạ một người con gái diện mạo diễm lệ, mắt phượng mày ngài. Ông bà đặt tên cho nàng là Quỳnh Nương.
Năm nàng 19 tuổi thì đem lòng yêu mến chàng Cá Lễ người quê ấp Hồ Khẩu, hai người nên duyên chồng vợ. Đúng khi hương lửa đương nồng mới được nửa năm, Quỳnh Nương dong thuyền về Đại La thăm cha mẹ vừa đi đến giữa dòng, bỗng nhiên nước sông chảy mạnh, trời đất quay cuồng, sóng nổi cuồn cuộn, Quỳnh Nương cứ thế mà thăng hoá tan biến vào không gian mịt mùng. Chàng Cá Lễ đến bờ sông lập đàn tế bảy ngày bảy đêm thì thấy trên sông xuất hiện một chiếc thuyền rồng, trong thuyền có tiếng truyền ra rằng: “Thiếp là con gái Vua Thủy Tinh, chàng là Đông Hải Thủy Quan hội ngộ nhau phần nhiều hạn ách, không thể trì hoãn mà nên duyên chốn này. Nay nguyện xin cùng chàng âm phù cho đất nước, học đòi tính trung trinh”. Lời nói vừa dứt thì không thấy thuyền rồng kia đâu nữa, chàng Cá Lễ tâu về triều xin lập miếu ở nơi nàng hoá gọi là đền Chính Đức, dân gian thường gọi là đền Mẫu Thăng Long.
Vua ban gỗ trầm hương làm tượng, gia phong cho mỹ tự là THÁI NGỌC QUỲNH DUNG CÔNG CHÚA, lũy triều sắc tặng, lịch đại đế vương tôn phong, trăm họ chốn kinh đô nương nhờ cầu đảo. Uy linh thánh Mẫu đại vương tứ chiếng tiếng tăm lan rộng, trăm ngả giang hồ truyền tai, vua Thái Tổ Lý triều đi đánh Chiêm Thành cũng ghé vào mà ban ngự chế, sự thiêng nức tiếng đất Thăng Long. Mỗi khi làng Hồ Khẩu, quận Tây Hồ mở hội hè đại đám đều rước Thánh Mẫu về đình làng dự tế cùng chồng là Dực Thánh đại vương Cá Lễ và Vệ Quốc đại vương Cống Lễ.
Tiếc rằng thế sự đổi thay, đền cổ nay đã hoại tàn, trên nền cũ tích xưa, đồng dân Hồ Khẩu dựng lại linh từ, dần dần phục hồi nơi thờ tự, phụng sự nữ thần Thủy phủ tối linh. Nhật nguyệt vằng vặc sáng soi, đức thiêng Thánh Mẫu rạng ngời như Ngân Hà, tinh tú! Muôn dân ngưỡng vọng ngóng trông mưa móc!