Landmarks

Khu di tích Lam Kinh

Tổng quan

Khu di tích lịch sử Lam Kinh nằm ở toạ độ 19055,565 vĩ Bắc, 105024,403 kinh đông. Hiện nay, di tích Lam Kinh nằm trên địa phận thị trấn Lam Sơn và xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân và xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hoá. Từ thành phố Thanh Hoá đi về phía Tây 50km ta sẽ gặp di tích Lam Kinh nằm bên tả ngạn sông Chu, cách Hà Nội 150km đi theo đường Hồ Chí Minh rẽ trái 1,5km sẽ gặp di tích Lam Kinh.

Cũng như các triều đại trước đó với tấm lòng tôn kính tổ tiên vua Lê cho xây dựng nhiều cung điện, lăng tẩm với quy mô to lớn ở đất Lam Sơn và coi đây là "Kinh đô" thứ hai của Nhà nước Đại Việt sau Đông Kinh (Thăng Long - Hà Nội). Vì lẽ đó, đương thời Lam Kinh trở thành vùng đất "căn bản" có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nhà Lê, tồn tại như một thánh địa tôn nghiêm, nơi thờ cúng tổ tiên và các Hoàng đế nhà Lê, nơi mai táng nhiều Hoàng đế và Hoàng Thái hậu nhà Lê, nơi cử hành những nghi lế mỗi khi vua Lê về bái yết sơn lăng.

Trong suốt quá trình tồn tại, Lam Kinh được các sử gia phong kiến biên chép với sự quan tâm đặc biệt. "Đại Việt sử ký toàn thư", "Đại Nam nhất thống chí", "Việt sử thông giám cương mục" ghi các lần xây dựng Lam Kinh. Năm 1433 Lê Thái Tổ mất, đưa về Lam Kinh táng ở Vĩnh Lăng. Tháng 12 cùng năm các quan theo hầu về Tây Kinh, dựng miếu điện Lam Sơn. Tháng 4 năm 1434, Lê Thái Tông sai Hữu bộc xạ Lê Nhữ Lãm đến Lam Kinh dựng miếu thờ Thái mẫu. Cùng năm đó, điện Lam Kinh bị sét đánh cháy. Đến tháng 9 năm 1448, vua Lê Nhân Tông - vị vua thứ 3 nhà Lê xuống chiếu cho Thái uý Trịnh Khả, các cục bách tác làm Miếu, Điện ở Lam Kinh chưa đầy một năm sau, tháng 2 năm 1449 Lê Khả báo về triều đình việc xây dựng hoàn thành.

Diện mạo của Lam Kinh được Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú  ghi chép như sau: "Điện Lam Kinh đằng sau gối vào núi, trước mặt trông ra sông, bốn bên non xanh nướ biếc, rừn rậm um tùm, Vĩnh lăng của Lê Thái tổ, Chiêu Lăng của Lê Thái tông và lăng các vua nhà Lê đều ở đây cả. Lăng nào cũng có bia. Sau điện lấy Tây hồ làm não, giống như hồ Kim Ngưu. Hồ rất rộng lớn, nước các ngả đều chảy cả vào đó. Có son sông phát nguyên từ hồ ấy, chảy vòng trước mặt, lòng sông có những viên đá nhỏ, tròn và nhẵn trông rất thích mắt nhưng không ai dám lấy trộm. Lại có lạch nước nhỏ, chảy từ bên tay phải qua trước điện, ôm vòng lại như cánh cung. Trên lạch có cầu giống như Bạch Kiều ở Giảng Đình, điện Vạn Thọ Đông Kinh đi qua cầu mới tới điện. Nền điện rất cao, hai bên mở rộng, dưới chân điện có làn nước phẳng giống như trước điện nhà vua coi chầu. Ngoài cửa Nghi môn có hai con chó ngao bằng đá, tục truyền là rất thiêng. Điện làm ba ngôi liền nhau, kiểu chữ công, mẫu mực theo đúng kiểu các miếu ở Kinh sư theo từng bậc mà lên, rồi từ đó trông xuống thì thấy núi khe hai bên Tả, Hữu, cái nọ cái kia vòng quanh thật là một chỗ để xây dựng cơ nghiệp.

Nhưng trải qua thời gian và những biến thiên lịch sử, nhiều kiến trúc của khu di tích Lam Kinh không còn lại bao nhiêu, phần nhiều đã bị hư hỏng, huỷ hoại, nhất là sau khi triều Nguyễn chuyển việc thờ cúng các vua Lê từ Lam Kinh về đền Bố Vệ (Thành phố Thanh Hoá). Sau khi kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình lập lại ở miền Bắc, được sự quan tâm của Đảng Nhà nước, tưởng nhớ đến công lao to lớn của anh hùng giải phóng dân tộc Lê Lợi và công lao phục hưng đất nước của vương triều Lê Sơ, nhất là vua Lê Thánh Tông.

Năm 1961 đã cho xây dựng nhà che bia Vĩnh Lăng, kiến trức gỗ lim lập ngói mũ hài hai tầng tám mái cong.

Năm 1962, Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch) quyết định xếp hạng cấp quốc gia đối với di tích Lam Kinh.

Tháng 10 năm 1994 dự án quy hoạch tổng thể trùng tu, tôn tạo phục hồi di tích lịch sử Lam Kinh được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, công tác bảo tồn tôn tạo chính thức được triển khai thực hiện. Từ đó, các công trình kiến trúc được phục hồi tôn tạo. Hình hài toàn bộ khu di tích dần dần được hiện ra; cảnh quan sông, hồ, rừng Lam Sơn và hầu hết các công trình kiến trúc trong khu di tích Lam Kinh đều được nghiên cứu, tổ chức triển khai lập dự án phục hồi tôn tạo. Hệ thuỷ là toàn bộ hệ thống sông Ngọc, hồ Tây, hồ Như Áng được người xưa tự tạo, đắp đập ngăn dòng suối Hướng. Cố giáo sư Trần Quốc Vượng cho đây là đập từ thời tằng tổ của Lê Lợi là cụ Lê Hối đắp, dựa vào thế sườn đồi tự nhiên đào đắp thêm để tạo thành hồ Như Áng, dẫn nước về hồ Tây, cấp nước cho sông Ngọc chảy vòng trước điện Lam Kinh được coi là tiểu huyền thuỷ. Đại huyền thuỷ là sông Lương Giang (sông Chu) tạo thành minh đường (sáng) cho Điện Miếu Lam Kinh. Dựa trên kết quả điền giã dân tộc học và nghiên cứu khảo cổ học, công trình đã được phục hồi tôn tạo trên dấu tích xưa, đang phục vụ hiệu quả cung cấp nguồn nước cho toàn bộ khu di tích Lam Kinh và phục vụ đời sống dân sinh nhân dân trong vùng.

Khu trung tâm Điện Miếu di tích Lam Kinh, qua cầu Bạch, Giếng cổ, đến Nghi Môn, điện miếu Lam Kinh được xây dựng trên sườn đồi đất thoải tự nhiên từ Tây sang đông. Người xưa đã san gạt tạo thành 3 cấp nền bằng phẳng tính từ dưới lên có 3 lớp kiến trúc rõ rệt:

Lớp nền thứ nhất gồm: Giếng cổ, Nghi môn, Sân Chầu. Giếng cổ cách Nghi môn 10m lệch về bên tả Giếng cổ, tương truyền giếng có từ thời cụ Lê Hối (cụ nội của Lê Lợi). Qua công tác nghiên cứu hảo cổ học cho thấy "giếng có mặt cùng với thời gian khởi dựng điện Lam Kinh, phải chăng đây là nơi cung cấp nước khi nơi này chưa trở thành kinh đô" (khảo cổ học 1997). Để tạo thành giếng, người xưa đã cho đắp ngăn đoạn suối chảy từ Tây sang Đông Nam để lấy nước ăn uống, sinh hoạt cho hàng nghìn gia nhân trong nhà. Khi Lam Kinh trở thành điện miếu thì giếng có thể vẫn được sử dụng phục vụ sinh hoạt hàng ngày. Giếng có bên để lên xuống lấy nước. Năm 2003, giếng được phục hồi tôn tạo kích thước hiện tại dài 37,5m, rộng 30m, góc tròn kè đá xung quanh, sâu 7,5m, mực nước dao động ở mức 3,5 - 4m.

Nghi môn (cổng phía Nam) là nơi đón trước khi vào chầu. Trước Nghi môn có đặt 2 tượng nghê đá "huyền thoại" tương truyền rất thiêng để canh gác cổng, tiếp đó là hai vầng nhật nguyệt bằng đá hình tròn có đường kính 0,70m, có lỗ đục ở đế, đây có thể là lối cửa của Nghi môn thời Lê Sơ. Nghi môn được phục dựng năm 2009 trên nền móng kiến trúc thời Lê Trung Hưng, khánh thành trong dịp lễ hội 2010.

Sân Rồng (sân Chầu) là một trong những công trình có diện tích lớn trong khu trung tâm của điện Lam Kinh. Kết quả khảo cổ học cho biết, sân Rồng có chiều dài 64,50m, chiều rộng 56m, diện tích trên 3612m2. Sân Rồng là nơi để các quan chầu khi vua thiết triều và tế lễ mỗi khi về bái yết sơn lăng. Giữa sân có 3 lối đi, lối giữa giành cho vua đi, hai lối hai bên dành cho các quan. Sân Rồng được phục hồi năm 2008, nền lát gạch bát 400 x 400 x 70, lối giữa sân lát đá đục nhám.

Lớp nền thứ 2 có chiều dài 62m, đây là lớp nền Chính điện có bậc cửu trùng (chín bậc), lan can là 2 đôi rồng ở giữa, 2 đôi vân mây 2 bên bằng đá xanh nguyên khối, mỹ thuật chạm khắc cầu kỳ, chau chuốt theo phong cách thời Lê Sơ, tạo thành 3 lối lên Chính điện.

Chính điện là công trình kiến trúc quan trọng bề thế nằm ở vị trí trung tâm di tích Lam Kinh. Chính điện có bố cục mặt bàng hình chữ công (I) với 2 lớp kiến trúc kế tiếp có niên đại Lê Sơ và Lê Trung Hưng. Lớp kiến trúc Lê Sơ toàn bộ 43,3m, rộng 30m (phần thắt chữ công dài 17,8m, rộng 11m) lớp kiến trúc Lê Trung Hưng được xây dựng trên lớp Lê Sơ kích thước lớn hơn, dài 48,5m, rộng 39,5m (thắt chữ công dài 19,4m, rộng 13,6m) qua mặt bàng Chính điện cho ta thấy toà nhà trước, sau có 9 gian, phần thắt chữ công 5 gian tổng diện tích của 3 nhà 1640m2. cùng với các loại hình vật liệu và trang trí kiến trúc, có thể nhận thấy đây là một công trình kiến trúc quy mô đồ sộ nhất trong khu di tích Lam Kinh.

Lớp nền thứ 3 nằm ở phía sau Chính điện, cao hơn từ 0,4m - 1m, có chiều dài 135m hình bán nguyệt ôm lấy toà Chính điện là 9 toà Thái miếu, mỗi toà có kích thước hình chữ nhật (gần vuông) tương đối bằng nhau (dài từ 13,5m đến 16m, rộng từ 10,4m đến 12,9m) trên nền đất tương đối bằng phẳng. Đỉnh cao nằm ở toà 5 (Chính giữa) thấp dần về hai phía. Mỗi toà đều có bậc lên xuống, thành bậc (lan can) được tạc hình rồng và trang trí hoa lá tinh xảo. trong những năm gần đây nhà nước đã đầu tư phục dựng được 5 trong số 9 toà thái miêus để thờ cúng các vua, thái hoàng thái hậu triều đại Hậu Lê. Toà chính giữa thờ 3 vị: Thái tổ Cao hoàng đế (Lê Lợi), Hiển tổ trạch hoàng đế (Lê Đinh), Tuyên tổ Phúc hoàng đế (Lê Khoáng), các toà bên tả bên hữu thờ các vị vua đời sau thế thứ kế tiếp. Thái miếu là nơi các vua Lê về tổ chức làm lễ bái yết thờ và suy tôn tổ tiên.

Nằm phía sau cách 9 toà Thái miếu khoảng 60m là lăng mộ vua Lê Thái tổ (Lê Lợi) sinh ngày 6 tháng 8 năm ất Sửu 1385, tại quê ngoại làng Chư Sơn (nay thuộc xã Xuân Thắng - Thọ Xuân), mất ngày 22 tháng 8 nhuận năm Quý Sửu (1433) tại Đông Kinh (Thăng Long - Hà Nội). Đến ngày 23 tháng 10 cùng năm đưa về Lam Sơn táng tại Vĩnh Lăng.

(ditichlamkinh.vn)

Toạ độ

Retrieving
 

Các địa điểm thuộc Khu di tích Lam Kinh [tra cứu]

Hình ảnh [xem cả trang] [Google Images]























 © Henri Parmentier - nhà khảo cổ học trường Viễn đông Bác cổ - làm việc tại di tích Lam Kinh năm 1923.


Bài viết



Liên kết [Google search]



Bình luận

Lưu ý: chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung các bình luận của bạn đọc
Khu di tích Lam Kinh
Địa chỉ Unnamed Road, xóm Lam Sơn, Xuân Lam, Tho Xuan District, Thanh Hoa, Vietnam
Thêm bởi admin
Vào ngày 2014-09-27 21:09:22
Các thành viên
Thời tiết tại đây  ...
Các địa điểm gần nhất